Xứ Kinh Bắc xưa (danh từ cổ thường gọi là trấn Kinh Bắc) gồm 4 phủ (20 huyện), bao gồm toàn bộ hai tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các vùng lân cận Hà Nội như Gia Lâm, Long Biên, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn, Văn Giang, Văn Lâm và Hữu Lũng (thuộc tỉnh Lạng Sơn). Tuy nhiên, ngày nay nói đến Kinh Bắc người ta thường nghĩ đến Bắc Ninh, một tỉnh rất nổi tiếng ở miền đồng bằng Bắc bộ và cũng là nơi phát xuất các điệu hát Quan họ cùng những lễ hội, đình chùa, mang các sắc thái đặc biệt.
Những tài liệu dưới đây được viết bằng chữ Hán Nôm, là những ghi chép vào năm Khải Định thứ 5 (1920) về các phong tục tập quán dân gian ở vùng Kinh Bắc, do trường Viễn Đông Bác Cổ chủ trương và các nhà nho Việt Nam tiến hành khai báo.
Tài liệu này đã được các nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm biên dịch trong cuốn Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán Nôm, do GS Đinh Khắc Thuân chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 2009.
Phần trích dẫn dưới đây do Nguyễn Thị Hường – Nguyễn Tố Lan dịch từ các tài liệu Hán Nôm và GS Đinh Khắc Thuân hiệu đính.
Tục hát và đánh chen ở xã Nga Hoàng, huyện Võ Giàng
Tài liệu viết: “Xã ấy, vào ngày 11 tháng 2 (âm lịch) có lệ nhập tịch tế thần. Tế xong, toàn dân cùng ăn uống ở đình. Đến chiều tối, mướn ca kỹ đến hát hầu thần ở đình. Ca kỹ hát ở chính giữa đình. Hai bên đình là chỗ trai gái đến xem hát. Nếu con trai thấy con gái đứng chỗ nào thì cũng đến chỗ đó đứng, con trai thân áp sát vào giữa đám con gái; thân người con trai sát với thân người con gái, tay người con trai bóp vào ngực người con gái”.
(Việc chỗ còn rộng mà cố ý đứng sát thân mình với thân người khác các cụ gọi là “đánh chen”, không thể dùng hai tiếng “chen nhau” được vì nghĩa rất khác. Ngày trước, các cụ hay dùng tiếng “đánh” lắm, ví dụ: đánh chén, đánh đu, đánh đáo v.v..., không hề có ý đánh lộn ở đây - ĐNH).
“Đêm đó thuê ca kỹ đến hát thờ thần từ 7-8 giờ tối đến 4-5 giờ sáng mới thôi. Từ lúc ca kỹ bắt đầu hát cho đến lúc thôi hát, đôi trai gái nào thuận tình, thì người con trai dẫn người con gái ra chỗ nào tối ở xa ngoài đình, hai người giao dâm với nhau, không dám làm việc đó ở trong đình vì sợ có uế khí với thần. Trai gái sát người vào nhau điểm ngực ở trong đình thì được, nhưng nếu đã giao dâm với nhau thì không được ở trong đình. Nếu như đêm ấy xã thuê ca kỹ hát thờ thần, không có con trai con gái trong xã ra đình xem hát, không có người con gái nào để đánh chen điểm ngực, thì đêm đó, mọi người dân xã trong đình tự nhiên sinh ra cãi nhau, hoặc người ca kỹ gây sự với người trong xã, hoặc người trong xã gây sự với nhau, mọi người sinh ra ẩu đả. Cho nên, năm nào vào đêm hôm đó, ca hát hầu thần cũng có nam nữ ra đình xem hát, đánh chen, điểm ngực thì mới tránh được nảy sinh những chuyện bất bình”.
(Điểm ngực: Bóp vú, GS Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện chú thích. Nhập tịch: Đem chiếu vào để trải ở đình. Ngồi vào trong chiếu cũng gọi là nhập tịch - ĐNH).
Hát thờ thần và hát nằm với nhau ở làng Diềm
Làng Diềm tức xã Viêm Xá, tổng Châm Khê, huyện Võ Giàng ngày xưa, tương truyền là một trong những nơi gạo cội của hát Quan họ. Tài liệu Bắc Ninh tỉnh khảo dị ghi:
“Lại nói xã ấy có một ngôi đình phụng thờ hai vị thành hoàng, thánh ông hiệu là Tam Giang Đại vương, thánh bà hiệu là Hoàng hậu. Hằng năm vào ngày mồng 4 tháng Giêng khai xuân. Ngày 10 tháng 8, nhập tịch mở hội tế hai vị thần.
“Lại như trai gái xã ấy giao lưu với xã Hoài Bão ở huyện Tiên Du (cùng tỉnh Bắc Ninh). Nam nữ làm một hội hát, xã Viêm Xá gồm 10 người con trai, 10 người con gái, xã Hoài Bão gồm 10 người con trai, 10 người con gái. Nam nữ hai xã này hợp thành một phường ca hát. Đến ngày xã Viêm Xá mở hội xuân hay ngày nhập tịch tế hai vị thần, dân xã sai một người con trai mang trầu cau sang xã Hoài Bão mời con trai con gái Hoài Bão sang xã Viêm Xá hát. Nhưng con gái xã Hoài Bão không đi mà chỉ có các chàng trai đến xã Viêm Xá. Con trai xã Hoài Bão hát với các cô gái xã Viêm Xá. Nếu ngày nào theo tục lệ là ngày xã Hoài Bão tế thần, thì xã Hoài Bão cũng sai một người con trai mang trầu cau sang mời trai gái xã Viêm Xá đến hát, nhưng con gái xã Viêm Xá không đi, chỉ có con trai đến xã Hoài Bão hát với các cô gái xã Hoài Bão.
“Lại nói, xã Viêm Xá vào ngày 4 tháng Giêng có tục con trai con gái đến đình xem tế thần, rồi đến đêm thì cùng nhau về nhà Chị cả, hát với con trai xã Hoài Bão từ bên Hoài Bão sang. Đêm ấy, con gái đã có chồng và con gái chưa chồng trong làng này cũng đều đến nhà Chị cả. Con trai xã Hoài Bão với con trai xã Viêm Xá ngồi một bên, con gái ngồi một bên trong nhà Chị cả. Chị cả sai người nhà làm tiệc rượu mời các chàng trai xã Hoài Bão ăn uống no say, sau đó mới hát. Trai gái hát từ 8 giờ tối đến 2 giờ sáng thì tắt đèn trong nhà, cùng nằm mà hát. Lúc tắt đèn, Anh cả hát với Chị cả, Anh hai hát với Chị hai, Anh bé hát với Em bé; còn những người con trai nào thuận tình với người con gái nào thì hát với cô ấy. Nếu như chàng trai và cô gái nào thích nhau thì giả vờ đi tiểu ở phía ngoài nhà thật xa mà giao dâm với nhau, thường thì người trong nhà không biết. Sau đó lại vào trong nhà nằm mà hát, hát đến 4-5 giờ sáng mới thôi. Con trai xã Viêm Xá về nhà mình ở ngay trong xã nên không cần phải tiễn. Con trai xã Hoài Bão về bên Hoài Bão nên được con gái Viêm Xá tiễn. Chị cả tiễn Anh cả, Chị hai tiễn Anh hai, Chị ba tiễn Anh ba, Chị tư tiễn Anh tư, Em bé tiễn Anh bé v.v... Mỗi người tiễn một đường, không đi chung cùng toán với nhau, hoặc nếu chung đường thì đi cách xa nhau. Lúc 4-5 giờ sáng, trời vẫn còn tối, trai gái tiễn nhau về, nếu thích nhau thì cũng làm việc giao dâm với nhau ở bên cạnh đường, không ai biết, còn nếu biết thì cũng đi qua làm như không nhìn thấy. Xã này có tục lệ ấy nên người nào có con gái mà không cho đi hát thì bị những người cho con gái đi hát cười. Cười rằng: “Người có con gái không cho đi hát thì cũng hư mất đời, lại không tuân lệ làng”.
Một số câu hát được ghi lại như sau:
Nam:
Khen cho cũng thực duyên trời
Đưa ra kết mấy những người bạn loan.
Nữ:
Giầu này xin gửi bạn loan
Công này kể núi Thái Sơn nào tày
Yêu nhau ăn miếng giầu này
Ăn giầu rồi sẽ giải bày niềm riêng
Nam:
Muốn cho đôi chữ ái ân
Lòng tôi muốn kết trước sân giãi bày.
Nữ:
Muốn cho đôi chữ một dòng
Trên trời chưa định trong lòng đã vui...
Tục hát úp đèn, điểm ngực ở Niệm Thượng
Làng Niệm Thượng (thường gọi là làng Ném Thượng) sáng ngày Rằm tháng Giêng có tục giết lợn tế thần, đến tối thì mời đào nương đến hát. Tài liệu nói trên trong Bắc Ninh tỉnh khảo dị chép:
“Khấn xong, mọi người cùng lễ bái thần. Việc khấn bái xong thì người già ngồi vào gian bên trong đình, xem hát. Người kỳ mục ngồi ở gian giữa, chỗ có hương án, đánh trống thưởng phạt, xem hát. Đào nương đứng ở trên chiếu phía ngoài hương án mà hát. Đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ đều tụ tập trong đình xem hát.
“Ca hát từ lúc bắt đầu đến khoảng 8-9 giờ tối thì thắp đèn lên cho sáng. Hát đến chừng 2 giờ đêm, một người kỳ mục bưng đĩa đèn đứng thẳng trên mặt đất giữa đình, người khác lấy một cái chõ úp lên trên đèn. (Tục cổ thì tắt đèn đi, nay thì lấy chõ úp lên, nồi chõ có nhiều lỗ ở đáy nên đèn vẫn cháy). Trong đình, trong cung lúc ấy tối om om. Một người kỳ mục ngồi ở gian chính giữa mới bước xuống sờ ngực người đào nương. Còn đàn ông đàn bà người nào người nấy thấy đèn bị che đi, lại thấy kỳ mục sờ ngực đào nương thì các đàn ông cũng sờ ngực đàn bà, con trai sờ ngực con gái.
“Khoảng ba phút đồng hồ thì có một người nhấc cái chõ ra, đèn lại sáng. Mọi người thôi không sờ ngực nhau nữa, lại ngồi nghiêm chỉnh như cũ để xem hát...
“Nếu năm nào nhập tịch tế thần mà không mướn đào nương đến đình hát thờ thần, lại không sờ ngực đào nương, không có đàn ông sờ ngực đàn bà thì năm ấy trong làng trâu bò lợn gà phần nhiều đều bệnh tật, người người không được yên. Nếu có mướn đào nương đến hát và đàn ông sờ ngực đàn bà ở trong đình thì năm đấy dân được bình yên, trâu bò lợn gà sinh sôi nảy nở, lúa má, tằm tang tươi tốt.
Tục trên được ghi lại do người ghi là một nhà Nho chứng kiến tại chỗ vào đêm 15 tháng Giêng năm 1920 tại đình Niệm Thượng”.
(Nguồn: Blog của Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện)
* Giải thích: Tại sao lại có phong tục “điểm ngực, giao dâm” kỳ lạ như vậy? Xin thưa, Bắc Ninh là một tỉnh giàu có. Ngày trước, vấn đề y tế chưa tiến bộ, con người chết nhiều, tuổi thọ không mấy. Muốn gia tăng dân số trong làng, người ta khuyến khích dân chúng theo phong tục kỳ lạ đó, cũng là một hình thức nhắm gia tăng nhân khẩu trong làng mà thôi. Thời Đông Chu Liệt Quốc ở bên Tàu, Việt vương Câu Tiễn ra lệnh thưởng cho mỗi gia đình sinh con trai một con chó, một thúng gạo; thưởng mỗi gia đình sinh con gái một đôi gà, một thúng gạo. Những đứa trẻ lớn lên mà gia đình nghèo thì các quan địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ. Hễ nhà có con trai hay con gái đến 18 tuổi mà chưa lập gia đình thì bắt tội bố mẹ. Con trai không được lấy bà già, con gái không được lấy ông già, vì sợ khó sinh được con và con không tốt. Quả nhiên, dân số nước Việt tăng rất mau, đánh thắng nước Ngô và làm bá chủ thiên hạ. Còn ở Ấn Độ, Campuchia và nhiều nước khác thời xa xưa, người ta thờ Linga và Yoni tức các bộ phận sinh thực khí của phái nam và phái nữ với những biểu tượng bằng đá rất lớn đặt trong đền thờ. Ở Bình Định, Phan Rang, Phan Thiết... hiện nay người ta còn tìm thấy nhiều bộ Linga-Yoni hay các tượng nam nữ khỏa thân rất đẹp của dân tộc Champa (Chiêm Thành) trong các tháp Chàm ngày trước.
Hiện nay, tại các nước Anh, Nga, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch... số sinh rất ít, người ta đang áp dụng nhiều biện pháp ưu tiên để khuyến khích dân chúng sinh đẻ. Vậy thì, ở vùng Kinh Bắc, các cụ ta xưa có phong tục “điểm ngực, giao dâm” trong các lễ hội ngày xuân để gia tăng dân số trong làng thì cũng không có gì là xấu xa đến nỗi phải cấm Blog của Giáo sư Nguyễn Xuân Diện, một vị giáo sư tiến sĩ đã có những nghiên cứu hết sức giá trị. Nghiên cứu xong mà không cho công bố thì để làm gì? <
- Đào Nam Hưngsưu tầm
TB