Dưới đây là 4 lời tiên tri bất hủ của những vĩ nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam khiến hậu thế vô cùng thán phục.
1. Thiền sư Định Không giải đoán hậu vận đất nước
Thiền sư Định Không (730-808) họ Nguyễn, sư người hương Cổ Pháp, Bắc Ninh thuộc ḍng tộc quyền quư họ Nguyễn. Ông là một trong 3 thiền sư thuộc thế hệ thứ 8 thiền phái T́ Ni Đa Lưu Chi, tu hành ở chùa Thiện Chúng, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức.
Theo lịch sử ghi chép, ông là người am hiểu thế số, hành động đúng pháp tắc biết đoán định tương lai. Tương truyền, khi tiến hành xây chùa Quỳnh Lâm, lúc mới đào đất đắp nền đă phát hiện 1 cái ly hương và 10 cái khánh. Sau đó, nhà sư sai người đem xuống sông rửa sạch. Không may, một cái khánh bị rơi xuống tận đáy sông.
Khi đó, Thiền sư Định Không nhận thấy rằng đây không phải điềm báo tốt nên liền chia sẻ với mọi người: “Chữ Thập, chữ Khẩu hợp thành chữ Cổ. Chữ Thuỷ, chữ Khứ hợp thành chữ Pháp. Chữ Thổ chỉ làng đang ở nên sư quyết định đổi tên làng ḿnh từ Diên Uẩn thành Cổ Pháp. Kế đó, sư tụng rằng: Hiện ra pháp khí/ Mười hai chuông đồng/ Họ Lư làm vua/ Ba phẩm thành công”.
Trong sách Thiền Uyển tập anh cho rằng, ngay từ thời điểm năm 785 - 804, tức hơn 200 năm trước khi Lư Công Uẩn lên ngôi vua, thiền sư Định Không đă dự cảm được việc triều nhà Lư xuất hiện trong lịch sử nên đă làm mấy bài thơ tụng. Câu chuyện mang màu sắc huyền bí này lại gắn liền với ngôi chùa Quỳnh Lâm (tức chùa Đài hay c̣n gọi là chùa Lục Tổ, ở Đ́nh Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nổi tiếng đất Kinh Bắc:
“Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Tính Lư hưng long
Tam phẩm thành công”.
Dịch ra tiếng Việt:
“Hiện ra pháp khí
Mười khẩu chuông đồng
Họ Lư hưng long
Ba phẩm thành công”.
Không chỉ thế, trước khi mất, Thiền sư Định Không c̣n để lại lời tiên tri về hậu vận đất nước cho học tṛ: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh th́ truyền, nguyện ta đă măn”.
Đáng nói, hơn 60 năm sau, lời tiên tri của ông đă ứng nghiệm. Theo đó, nhà Đường cử Tiết Độ Sứ Cao Biền sang cai trị, bóc lột nhân dân ta. Thậm chí, chúng c̣n đến nhiều vùng đất, thế núi linh thiêng, nơi sẽ sinh người tài giỏi, trấn yểm triệt phá long mạch, trong đó có đất Cổ Pháp của sư Định Không.
Sau 1 thế kỷ, Đinh Tiên Hoàng (924 – 979) chấm dứt t́nh cảnh loạn lạc, sáng lập ra nhà Đinh và nước Đại Cồ Việt, mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ của người Việt.
2. Thiền sư La Quư tiên đoán sự ra đời của Nhà Lư
Thiền sư La Quư (852 – 936) người An Chân (Thái B́nh ngày nay), tu tại chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ông là nhà phong thủy và cũng là một thiền sư chứng đắc thần thông như thiền sư Định Không.
Theo sử chép, thuở nhỏ, ông thường chu du khắp các phương, hỏi thăm các bậc thiền sư. Trải qua nhiều năm không gặp đạo duyên, Trưởng lăo La sắp thối chí. May mắn sau này, Trưởng lăo gặp được pháp hội của Thông Thiện, nghe một lời, ḷng thiền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy.
Được thiền sư Thông Thiện truyền pháp, Trưởng lăo ra sức tu luyện đến khi đắc pháp sư tuỳ phương diễn hoá, tài phép vô biên. Tương truyền, mỗi khi ngài nói ra lời nào, tất là phù sấm. Cuộc đời của vị thiền sư này gắn liền với giai thoại hàn long mạch, phá yểm của Cao Biền.
Trong sách Thiền Uyển tập Anh cho rằng, khi Cao Biền sang nước ta, xây thành bên sông Tô Lịch, đào đứt con sông Điềm và những ao Phù Chẩn đến 19 chỗ trấn yểm. Với mong muốn biến nước Nam măi là vùng đất thuộc phương Bắc.
Tuy nhiên, chính Trưởng lăo La Quư đă phát hiện được điều này và cho tiến hành lấp lại các điểm Cao Biền sai người đào, phá long mạch trước đây. Sau đó, ông đă trồng một cây bông gạo ở chùa Châu Minh để hàn long mạch nhằm trấn chỗ đứt. Cây gạo mà Trưởng lăo La Quư trồng sau này gắn liền với giai thoại, sét đánh thành bài sấm truyền cho sự lên ngôi của Lư Công Uẩn.
“Đại sơn long đầu khỉ
Cù vĩ ẩn châu minh
Thập bát tử định thiền
Miên thọ hiện long h́nh
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiên nhật xuất thanh”.
Dịch nghĩa:
“Đại sơn đầu rồng ngửng
Đuôi cù ẩn Châu minh
Thập bát tử định thành
Bông gạo hiện long h́nh
Thỏ gà trong tháng chuột
Nhất định thấy trời lên”.
Do những từ “thập bát tử” ở câu số 3 là chiết tự của chữ Lư, nghĩa là họ Lư, nên bài thơ được diễn giải như sau: “Đầu rồng hiện ở núi lớn / đuôi rồng giấu sự thịnh vượng / Họ Lư nhất định thành/khi cây gạo hiện h́nh rồng/ chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột / chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh”. Điều này ứng với sự ra đời của nhà Lư vào tháng 11 (tháng chuột) năm Kỷ Dậu (năm gà) 1009.
3. Tài tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh
Thiền sư Vạn Hạnh (938 - 1025) là người họ Nguyễn, quê ở châu Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay). Ông là vị thiền sư có nhiều đóng góp trong việc mở ra nhà Lư đồng thời cũng là một nhà tiên tri có tiếng lúc bấy giờ.
Nhắc đến ông, hậu thế thường nhớ đến lời tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh gắn liền với cây gạo do thiền sư La Quư trồng ở làng Diên Uẩn. Theo Đại Việt Sử Kư, vào năm 1009, cây gạo này đă bị sét đánh và hiện lên những ḍng chữ như sau:
“Thọ căn diễu diễu
Mộc biểu thanh thanh
Hoa đào mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sanh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái b́nh”.
Dịch ra là:
“Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hoa đào rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cành khác lại sanh
Đông mặt trời mọc
Tây sao ẩn h́nh
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái b́nh”.
Sau khi suy ngẫm, Sư Vạn Hạnh đă giải đoán rằng, câu “Thọ căn diễu diễu” chữ “căn” là gốc, gốc là vua; chữ “diễu” đồng âm với chữ yểu, nghĩa là nhà vua (Lê Long Đĩnh) sẽ chết yểu.
Trong câu “Mộc biểu thanh thanh” chữ “biểu” là ngọn, ngọn là bầy tôi; chữ “thanh” đồng âm với chữ thịnh, nghĩa là một người trong số quần thần sẽ lên nắm chính quyền. Ở câu 3, chữ “hoa đào” ghép lại thành chữ “lê”, tức là nhà Lê sẽ sụp đổ. Ở câu 4, ba chữ “thập bát tử” ghép lại là chữ Lư, tức là nhà Lư sẽ lên ngôi.
Đến câu “Đông a nhập địa”, chữ “đông” và chữ “a” ghép thành chữ Trần, nói về sự kế tiếp của nhà Trần sau nhà Lư. Câu “Dị mộc tái sanh” nghĩa là một họ Lê khác (Lê Lợi và nhà Hậu Lê) sẽ lại nổi lên.
Qua lời sấm này, thiền sư Vạn Hạnh đă tiên đoán chính xác những diễn biến lịch sử của dân tộc trong khoảng 5 thế kỷ, từ thời Tiền Lê đến thời Hậu Lê.
4. Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), người mà dân gian quen là Trạng Tŕnh là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Không chỉ thế, ông c̣n được coi là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam với nhiều câu sấm được để lại và tập hợp trong Sấm Trạng Tŕnh.
Tác phẩm này đưa ra những lời tiên tri trong chiều dài nhiều thế kỷ, đến nay vẫn c̣n được t́m hiểu và luận giải. Dưới đây là một số sự kiện xảy ra trong thế kỷ 20, theo các nhà nghiên cứu đă được Sấm Trạng Tŕnh dự báo trước đó 5 thế kỷ.
- Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được tiên tri trong câu:
“Đầu Thu gà gáy xôn xao/Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”.
Dịch nghĩa,ở câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người.
Đến câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác đọc Tuyên ngôn độc lập trước hang vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đ́nh của thủ đô Thăng Long - Hà Nội.
- Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 được tiên tri trong câu:
“Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết Hoa tàn
Trực đáo Dương đầu Mă vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An”.
Dịch nghĩa:
Câu 1, “cửu cửu” bằng 81 năm, khoảng thời gian từ khi triều đ́nh Huế kư vào văn bản Ḥa ước đầu hàng thực dân Pháp cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, theo “càn khôn dĩ định” hay quy luật đất trời.
Câu 2, “thanh minh thời tiết” là thời điểm tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ rơi vào tháng 3 Âm lịch, “hoa tàn” là sự thất bại của người Pháp (thời Nguyễn Bỉnh Khiêm thượng gọi ngoại quốc là Hoa Lang”.
Câu 3, “trực đáo” là thẳng tiến, “dương đầu” là đầu năm con dê 1955, “mă vĩ”, là cuối năm con ngựa 1954. Câu 4, toàn câu có nghĩa rất rơ ràng: Tám vạn quân Cụ Hồ tiếp quản Thủ đô Hà Nội (tên gọi cũ là Tràng An).
VietBF@ sưu tập