Người đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975
Vũ Linh Châu - Nguyễn Văn Luân •Thứ sáu, 27/03/2020
Từ lâu, tôi đă có dịp bày tỏ ḷng ngưỡng mộ và khâm phục về việc đặt tên cho các đường phố tại Sài G̣n vào năm 1956, ngay sau khi chúng ta dành được độc lập từ tay thực dân Pháp. V́ đây là một công việc quá xuất sắc và quá hoàn thiện, nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công tŕnh do sự đóng góp công sức và trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban gồm nhiều học giả, nhiều sử gia, nhiều nhà văn, nhà báo…
Người đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975 và ư nghĩa của chúng
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn Văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đă được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô Văn Phát, Trưởng Pḥng Họa Đồ thuộc Ṭa Đô Chánh Sài G̣n.
Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát và việc đặt tên đường phố Sài G̣n
Trong những năm làm việc tại Ṭa Đô Chánh Sài G̣n, tôi có dịp góp phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc th́ tại Khu Kiều Lộ Sài G̣n Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc th́ tại Khu Kiều Lộ Sài G̣n Đông (Sài G̣n) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông cai lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường th́ ngập nước sau cơn mưa, đường th́ có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường, đường th́ dân xây cất trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc ḷng tên hơn 300 con đường.
Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên Tây như:
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho Chính Phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm.
Để đánh dấu việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sài G̣n được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm hoi.
Người đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975 và ư nghĩa của chúng
Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài G̣n năm 1967 (Ảnh của John Beck)
Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên đường sao cho hợp lư không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua “Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của Vua, để đặt tên cho 2 con đường th́ đường nào to và quan trọng hơn? Câu hỏi nhỏ như vậy c̣n thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ.
Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Pḥng Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức Trưởng Pḥng Hoạ Đồ.
Người đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975 và ư nghĩa của chúng
Thuần Phong Ngô Văn Phát h́nh phụ bản Như Việt Lưu
Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đă đệ tŕnh lên Hội Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đă được chấp thuận. Khi tôi vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nh́n những tên đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên ǵ và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ư sâu xa của tác giả.
Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với địa thế, và các dinh thự đă có sẵn từ trước. Tác giả đă cố gắng đem cái nh́n vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khía cạnh vừa t́nh vừa lư, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán riêng của ḿnh, bởi v́ ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rơ ràng là ông có ư ấy:
Đầu tiên là những con đường mang những lư tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lư, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đă nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
Đường đi ngang qua Bộ Y Tế th́ có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đă được đổi tên là Công Lư, phải chăng v́ đi ngang qua Pháp Đ́nh Sài G̣n. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công Lư và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
Đại Lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài G̣n nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đă dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lănh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đă tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.
Đại lộ Lê Lợi, Sài G̣n năm 1967 (Ảnh của John Beck)
Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết thay cho Lê Lợi th́ nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
Bờ sông Sài G̣n được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
Cụ Nguyễn Du, mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ ḷng cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi, bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải t́m đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Sài G̣n, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, th́ quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
Trường nữ Trung Học Gia Long lớn nhất Sài G̣n th́, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút ǵ cho trường nữ Trung Học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đă đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lư, nhưng có lư hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu. Tác giả những câu thơ “Vành ra ba góc da c̣n thiếu, Khép lại hai bên thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng hợp.
Ông Nhà Văn – Trưởng Pḥng Họa Đồ quả là sâu sắc.
Rất tiếc là lúc vào làm việc th́ Thuần Phong Ngô Văn Phát đă về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Măi sau này mới có dịp đọc tiểu sử của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông đă làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này.
Cũng chuyện đặt tên đường
Vua Lê Thánh Tôn đă mở mang bờ cơi nước ta từ Quảng Nam, Quảng Ngăi và B́nh Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và con cháu đă vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Ḥa, Ninh Thuận, B́nh Thuận, vĩnh viễn xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi c̣n tiếp tục mang về cho dân tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc…
Cũng phải kể luôn cả “Hoàng Triều Cương Thổ” (vùng đất mà thực dân Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn) là vùng Cao nguyên Trung phần trù phú màu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở mang bờ cơi này cũng bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.
Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam hiện nay là do ḍng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đă mang về cho dân tộc Việt Nam!
Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đă có công rất lớn trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa Hiền Vương đă đóng góp rất nhiều công sức trong việc b́nh định và chinh phục vùng đất Gia Định ngày xưa. Gia định ngày xưa bao gồm Biên Ḥa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Phước Long, B́nh Long, Long An, Mỹ Tho, Gia Định, Sài G̣n… bây giờ. Cho nên chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă lấy tên của Ngài để đặt cho một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn vào trung tâm Thành Phố Sài G̣n. (Chế độ sau này đă thay Hiền Vương bằng tên của Vơ Thị Sáu – Đường Nguyễn Hoàng bị đổi thành Trần Phú…).
Loại bỏ tên của Chúa Nguyễn Hoàng, của Chúa Hiền Vương và các vị ân nhân của dân tộc trong công cuộc Nam Tiến ra khỏi bản đồ Sài G̣n và các thành phố Miền Nam là điều mà tục ngữ ca dao b́nh dân gọi là “ăn cháo, đá bát”.
Đấy là chưa nói tới giấc mộng… Tây Tiến chưa thành. Hai vị trung thần nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đă mở mang bờ cơi nước ta tới tận biên giới… Thái Lan bây giờ, đă thiết lập thêm một Trấn mới là Trấn Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành). Phải chăng chính v́ vậy mà ngay từ khi vừa giành được chủ quyền từ tay thực dân Pháp, hai con đường lớn từ trung tâm Sài G̣n hướng về Bà Quẹo để sang thẳng đất Miên qua ngả G̣ Dầu, đă được mang tên hai vị Anh Hùng Tây Tiến nổi danh này. Đó là đường Trương Minh Giảng và đường Lê Văn Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một nhắc nhở cho các thế hệ mai sau về một sứ mạng chưa thành, một “Mission unaccomplished”…
Vũ Linh Châu và Nguyễn Văn Luân
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Ai đă đặt tên cho các đường phố Sài G̣n trước 1975?”
Theo TongPhuocHiep.com (Trang web của nhóm cựu học sinh trường trung học Tống Phước Hiệp – Vĩnh Long)
Tiểu sử nhà văn Ngô Văn Phát:
Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ ông học ở Bạc Liêu, Sài G̣n, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày c̣n ngồi trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, họa mười hai bài Thập Thủ Liên Hoàn của Thương Tân Thị… Có lúc ông dạy Việt Văn tại trường Pétrus kư Sài G̣n.
Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia – Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài G̣n.
Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài G̣n). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn Du).
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.
Ông mất trong năm 1983 tại Sài G̣n.
The Following 3 Users Say Thank You to longhue For This Useful Post:
Không hiểu chị tôi đă nghe tin về ông bằng cách nào.
Thời đó, đầu thập niên tám mươi, mọi phương tiện truyền thông đều thuộc về nhà nước Cộng Sản, quanh năm suốt tháng báo chỉ đăng tin “nước ta đang trong thời kỳ quá độ…” Kiểu dùng chữ như vậy mọi người phải chịu đựng măi nên đỡ thấy quái đản. Người đọc cứ tự điền vào chỗ trống thành “nghèo quá độ”, “đói quá độ” hay “láo quá độ”… tùy theo câu.
Vậy mà, một buổi tối, đột nhiên chị tôi nói “Em có biết Tướng Lê Minh Đảo không? Ông tướng đánh trận Xuân Lộc đó. Nghe nói ổng mới chết trong tù rồi! Tội quá, ổng c̣n trẻ lắm!”
Trước ngày miền Nam thất thủ tôi không biết ông Lê Minh Đảo. Sau đó, tôi có nghe loáng thoáng người lớn rỉ tai nhau về trận đánh ác liệt bảo vệ ngơ vào Sài G̣n trong những ngày đầu tháng Tư, 1975 tại Xuân Lộc. Tôi cảm phục những người chiến đấu đến cùng, nhưng điều đó sớm ch́m vào những hỗn độn của cuộc đổi đời. Vả lại tôi c̣n nhỏ quá, chẳng biết nghĩ ǵ hơn.
Cũng như thế, tối hôm đó, sau khi nghe chị tôi nói, chúng tôi chỉ biết nh́n nhau trong niềm xót thương lặng lẽ.
Một thời gian sau, tôi lại nghe một người bạn nói “Ông Lê Minh Đảo c̣n sống. Ổng chỉ bị mù thôi.”
Ở trong tù mà bị mù th́ chắc c̣n khổ hơn chết. Tôi thở dài – trẻ con Việt Nam sớm biết thở dài – rồi thầm đọc một lời cầu nguyện cho ông và những người tù chính trị đang bị đọa đày.
*
Đến năm 1993, khi đang ở Mỹ, nghe tin Tướng Lê đă sang theo diện HO và mắt vẫn sáng, tôi ngạc nhiên và vui lắm. Mừng cho ông cuối cùng cũng có những ngày b́nh an sau gần hai thập niên tù ngục.
Nhiều năm sau, khi internet cung cấp mọi tin tức mà ngày trước không dễ kiếm, tôi đă lên mạng t́m xem mặt Tướng Lê và nghe ông nói. Tôi muốn biết về ông. Không phải qua những lời kể, mà bằng cảm nhận của chính tôi.
Và tôi đă gặp được đoạn phim buổi nói chuyện của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo với Việt Dzũng. Buổi phỏng vấn khá dài nhưng tôi nhớ nhất là khi ông nói về sự hy sinh của người lính. Giọng ông hơi lạc đi khi nhắc đến t́nh bạn của hai người lính trẻ và sự đơn sơ, không hận thù trước bờ sinh tử của họ.
Phút nghẹn ngào của Tướng Lê đă làm tôi bồi hồi. Tôi ngỡ tim ông đă cứng và nước mắt ông đă kiệt sau mấy chục năm ngang dọc trên chiến trường và mười bảy năm trong tù. Tôi ngỡ ông sẽ nói nhiều về những chiến công và những đóng góp của ông trong hai mươi năm ǵn giữ miền Nam. Nhưng ông nói về các điều khác, như cái chết của người lính trẻ và sự hy sinh của chiến binh. Hơn hai mươi năm đă qua, ông vẫn tự trách ḿnh, môi ông run run khi nói “…chúng tôi cũng không lo được cho họ một cách đầy đủ…” Có lẽ chưa bao giờ ông ngưng buồn về chuyện đó. Tài làm tướng của ông đă làm tôi phục. Nhưng vết thương mấy chục năm trong ḷng ông mà tôi vừa chứng kiến đă làm tôi quư mến ông.
Đầu tháng Tư, 2015 tôi viết lại chuyện của những sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ bốn mươi năm trước. Họ tụ tập tại một chung cư cũ kỹ ở Houston, khắc khoải nh́n về miền Nam đang vuột mất. Người sinh viên năm xưa cứ nhắc đi nhắc lại niềm hy vọng bùng lên khi đám người Việt trẻ theo dơi sự anh dũng của những chiến sĩ Xuân Lộc, dù bị dồn tới chân tường.
V́ thế, tôi t́m xem lại những khúc phim của tháng Tư xưa. Tôi thấy lại khói lửa điêu tàn. Tôi gặp lại các chiến sĩ anh hùng. Và Tướng Lê Minh Đảo, mắt nảy lửa, nghiến răng thề quyết chiến.
Rồi tôi giật ḿnh, nhận ra rằng những người trai dũng mănh ấy nay đă già, và tôi cũng đang già. Mai này khi chúng tôi ra đi, đàn con gốc Việt c̣n biết ǵ về quê cha đất tổ? Phải chăng điều đó tùy thuộc vào những ǵ chúng tôi làm hôm nay?
Thế hệ trẻ cần nghe những điều thật từ những người thật. Sẽ tốt biết bao nếu họ được gặp gỡ những nhân vật lịch sử như Tướng Lê Minh Đảo.
Thế là tôi lần ṃ đi t́m Tướng Lê.
Tôi không có mối quen biết xa gần nào với ông, cũng chẳng có chức tước ở bất cứ hội đoàn nào. Vậy mà tôi thấy chuyện mời ông đến vùng Thung Lũng Điện Tử thật tự nhiên, nhẹ nhàng. Có lẽ tôi linh cảm rằng vị tướng, người sau hơn hai mươi năm vẫn khóc cho lính, rất quan tâm tới lớp trẻ.
Sau hai tuần hỏi thăm nhiều người, cuối cùng tôi may mắn có được sự giúp đỡ tận t́nh của một người chị làm báo. Tôi được một cái hẹn nói chuyện với Tướng Lê. Mười giờ sáng, một ngày đầu tháng Tư, 2015.
Gần tới giờ hẹn, tôi thấy hơi hồi hộp. Thật t́nh tôi sẽ buồn chút thôi nếu Tướng Lê từ chối sang California nói chuyện. Nhưng tôi sẽ buồn nhiều nếu thực tế quá khác với những cảm nghĩ ở trong ḷng.
*
Ông đến San Jose chiều 27 tháng Tư, 2015 trên chuyến bay từ Arizona. Từ xa, tôi thấy ông trong chiếc áo sơ mi kiểu Hawaii màu vàng nhạt có hoa xám, đang dáo dác nh́n quanh.
“Thưa Bác! Con là Kh.A.”
Ông cười. Chúng tôi bắt tay nhau. Giản dị như đă quen từ trước.
Ông cho biết đă lên máy bay ngay sau khi dự buổi lễ kỷ niệm bốn mươi năm miền Nam bị cưỡng chiếm với cộng đồng Việt-Mỹ ở Pheonix, Arizona. Tôi hỏi ông có mệt không, ông nói “Không sao đâu. Bác giờ như một kho sách cũ, chỉ lo không đủ giờ để trao lại kiến thức cho những người đi sau…”
Tối hôm đó, chúng tôi mời ông ghé chơi nhà một người bạn. Khi bước vào nhà, trên salon có một cây đàn guitar kiểu mới, chỉ có khung sắt mà không có thùng đàn. Tôi thấy mắt ông ngời lên một sự thích thú gần như trẻ thơ. Ông bước nhanh tới, nâng cây đàn lạ mắt, vuốt nhẹ lên những sợi dây.
Khi chúng tôi mời ông đánh một bài, ông x̣e bàn tay ra nh́n, cười nhẹ rồi nói:
- Ở tù bị thương, hư tay rồi. Giờ lại già nữa, đánh kém lắm.
Chúng tôi không nài ép, chỉ lẳng lặng nh́n ông vừa nói chuyện vừa lơ đăng lướt tay trên cần đàn. Một lúc sau, như hứng khởi, ông hát
“Trùng dương dâng sóng, biển khơi như thét gào. Cuốn đi cánh hoa đào dạt trôi nơi nao… “
Bài hát đó ông sáng tác trong tù, ngày nghe tin người bạn cùng trại mất hết vợ con trên đường vượt biển.
“C̣n sống tôi c̣n khóc, tôi c̣n thương quê hương tôi …”(*)
Giọng ông nhẹ và buồn. Tôi nghe, và nghĩ rằng ông đang nói những điều tận đáy ḷng.
*
Sáng 29 tháng Tư, Tướng Lê bắt tay vào chuẩn bị cho buổi nói chuyện ngay sau ly cà phê sớm. Ông sắp xếp ư nghĩ, soạn phần trả lời cho các câu hỏi các sinh viên đă gởi đến, và ghi xuống một loạt các quyển sách nói về chiến tranh Việt Nam để giới thiệu đến các sinh viên.
Măi tới giờ ăn trưa tôi mới có dịp nói chuyện với ông. V́ có quá nhiều điều muốn hỏi, tôi buột miệng:
- Bác ơi, có bao giờ Bác hối hận đă làm cho các con Bác kẹt lại với Cộng Sản sau ngày mất miền Nam không? Các con Bác có bao giờ trách Bác không?
Nói xong, tôi hơi bối rối v́ đă hỏi một câu khá nặng nề trong lúc ông đang nghỉ ngơi. Nhưng ông trả lời ngay:
- Đó là một quyết định rất đau ḷng, nhưng Bác chưa bao giờ hối hận. Bác ra lệnh cho anh em binh sĩ quyết đánh, gia đ́nh của họ đều ở lại, có lẽ nào Bác lo cho con Bác ra đi? Bác có thể thu xếp cho gia đ́nh ḿnh, nhưng làm sao thu xếp được cho mọi gia đ́nh của những người đang tin vào Bác? Nếu Bác cho vợ con đi trước, lính của Bác biết là giờ chót Bác có thể lên máy bay đi bất cứ lúc nào. Như vậy họ c̣n tin tưởng để đánh hay không? Như vậy Bác có công bằng với họ hay không? Bác chấp nhận định mệnh của Bác và gia đ́nh, nếu có phải chết th́ chết cùng nhau. Bác muốn đối xử công bằng để sau này con bác không phải xấu hổ với con em của những người từng nghe lời Bác mà liều chết. Bác muốn con bác sau này không phải nh́n Bác mà nghĩ ông già ḿnh ngày xưa từng gạt lính.
Trầm ngâm vài giây, rồi ông tiếp:
- Năm 1979, lúc Bác đang bị Cộng Sản đày đọa, nghe tin gia đ́nh đi thoát hết sau năm lần vượt biên bị tù, Bác trút được gánh nặng khủng khiếp trong ḷng. Bác tạ ơn trời đă cho Bác ân huệ được lương tâm yên ổn, được trọn vẹn mọi bề. Từ đó, Bác không c̣n phải lo lắng, đau khổ cho số phận của vợ con trong nanh vuốt của kẻ thù nữa. Bác không sợ kẻ thù dùng các con thơ để khống chế ḿnh nữa. Bác được tự do.
C̣n các con Bác, tụi nó cũng hiểu và không trách Bác. Trong bốn năm kẹt lại, tụi nó đă học được rất nhiều. Những kinh nghiệm sống đó làm cho chúng biết thương người, biết khiêm nhường, biết quư những điều tưởng như là tầm thường. Các con của Bác có thể tự hào rằng ḿnh đă hiểu biết về Cộng Sản và đă vượt thoát khỏi ngục tù của họ. Đó là một tài sản mà Bác nghĩ các con Bác nên hănh diện đă có được.
Tôi uống một ngụm trà, nuốt xuống cái nghèn nghẹn ở cổ. Tôi nghĩ, trước khi tử chiến ở Xuân Lộc, nếu ông lo cho gia đ́nh đi th́ đó cũng là chuyện thường t́nh. Không ai trách được ông. Nhưng Tướng Lê không phải là người làm những chuyện thường t́nh...
Thời vừa bị chiếm, mạng sống của người miền Nam rất nhỏ, thêm dịch bệnh hoành hành làm trẻ con chết rất nhiều. Nếu chỉ một trong chín người con ông có mệnh hệ nào, nỗi dằn vặt sẽ ám ảnh ông suốt đời. Nhưng Thượng Đế đă ǵn giữ gia đ́nh ông vẹn toàn. Cám ơn Thượng Đế, Tướng Lê cần và xứng đáng với ơn huệ của ngài.
Hôm sau, ngày 30 tháng 4, 2015, ông và người thông dịch miệt mài chuẩn bị cho buổi nói chuyện lúc 6 giờ chiều. Trưa đến, tôi nhắc ông đi ăn nhưng ông dùng dằng măi vẫn chưa đứng lên được. Thấy vậy tôi đành khuân về mấy ổ bánh ḿ thịt nguội. Ông gặm bánh ḿ, uống beer và cười nói vui vẻ, hài ḷng v́ buổi nói chuyện được chuẩn bị chu đáo.
Cuôc gặp gỡ với sinh viên diễn ra thành công và cảm động. Tướng Lê đă nhắn nhủ lớp trẻ bằng những điều ông đúc kết suốt nửa cuộc đời trong chiến tranh cộng với mười bảy năm trong tù ngục. Những chia sẻ của ông thiết tha, sâu sắc nhưng cũng rất thực tế, phù hợp với tâm hồn và đời sống của giới trẻ.
Buổi họp kết thúc khá trễ nên chúng tôi chỉ ghé tiệm kem ăn tráng miệng rồi về.
Măi đến đêm, tôi mới chợt nhận ra rằng bữa ăn “đàng hoàng” nhất của Tướng Lê ngày hôm đó là ổ bánh ḿ. V́ ông đă không đụng đến đĩa thức ăn do các em sinh viên mời lúc chiều, ông nói muốn tập trung để nói chuyện với các em.
*
“Con gián làm mồi câu tốt lắm, con à.”
Buổi chuyện tṛ của tôi và Tướng Lê ngày hôm sau bắt đầu bằng câu chuyện đời thường như thế. Ông kể thời ông ở Cần Thơ, ông thường bắt gián ở đằng sau một tiệm ăn ở gần nhà rồi đem ra bến Ninh Kiều câu cá.
Biết rằng lúc đó ông đă lên tới cấp Tá, tôi hỏi:
- Chắc Bác câu cá cho vui hả Bác?
- Câu cá về ăn chớ! Nhà Bác đông con, lương của Bác th́ khá so với lính, nhưng chẳng dư dả ǵ đâu, con. Lính ḿnh hồi đó cực lắm con à, một tháng lương mua được một tạ gạo. C̣n lương Bác cũng chỉ tạm đủ lo cho vợ con.
Hoàn cảnh lính và những hy sinh của gia đ́nh lính th́ không nói sao cho xiết, con à. Gần một triệu người đă chết và bị thương trong cuộc chiến, c̣n số người chịu mất mát sau lưng họ th́ không biết đếm bằng cách nào! Bác cứ nghĩ con người ta ai cũng bằng xương bằng thịt, nếu Bác chết trận, mười người trong gia đ́nh Bác đau đớn bao nhiêu th́ những cái chết trong gia đ́nh lính cũng đau bấy nhiêu. Hồi ở Chương Thiện, có một người lính đi phục kích, vợ con bị địch câu pháo trúng vô nhà, chết hết. Anh ta về, ngồi gục mặt trước đống gạch nát, Bác đứng đó mà chỉ biết đặt tay lên vai anh ta, không t́m được lời nào an ủi. Vậy mà hai bữa sau, anh ta trở lại đơn vị, tiếp tục đánh giặc…
Cái nhíu mày của ông làm tôi nghĩ ruột ông đang thắt lại, nên tôi chuyển qua đề tài khác:
- Thời Bác ở trong quân đội, di chuyển nhiều nơi, cả nhà đều đi theo hả Bác?
Nụ cười nhẹ làm những vết nhăn trên trán ông dăn ra.
- Ờ! Bác bận rộn quá nên đi đâu Bác cũng cố gắng đem gia đ́nh theo để được ở gần càng nhiều càng tốt. Khi nào có dịp nghỉ, Bác dắt vợ con đi chơi. Nhưng sau này, Bác ở đóng quân ở Long B́nh th́ tụi nhỏ đi học ở Sài G̣n, cuối tuần nếu Bác không đi hành quân th́ mới được gặp. Có một lần Bác dắt tụi nhỏ đi coi chiếu bóng về, tụi nó than đói bụng. Ở tỉnh lỵ đâu có hàng quán ban đêm, Bác lại không muốn sai lính nên tự nấu chè cho tụi nó ăn. Nấu nước sôi, đập vô một củ gừng, quậy đường cát, rồi xé bánh tráng bỏ vô. Bánh tráng mà ḿnh hay ăn đồ cuốn đó. Bánh tráng coi mặn mặn vậy mà nấu chè ngon lắm! Bữa nào con làm thử đi!
Ông vừa nói vừa gật đầu để thêm phần… thuyết phục. Tôi tṛn mắt nh́n ông. Chỉ là một kỷ niệm vui, không màu mè, bóng bẩy, nhưng ông làm tôi cảm động lẫn ngạc nhiên. Một vị Tư Lệnh tự nấu chè cho con ăn khuya? Nồi chè mà tôi không cần thử cũng biết là không thể ngon. Nhưng nó làm tôi thương người cha ở trong ông, và tự hào v́ quân lực VNCH đă có một vị chỉ huy như ông. Ôi, nồi chè của ông Tướng!
Càng nói chuyện với ông, tôi càng thấy ông rất “không thuờng t́nh”. Ông không dè dặt, thận trọng như thường thấy ở những người từng chứng kiến nhiều mưu mô, tráo trở. Ông không có cái trầm ngâm, chán chường của một người nếm quá nhiều đau thương. Ông nhiệt t́nh, hăng hái, và thật. Như thể cuộc đời ông chưa từng bị dập vùi, như thể ông c̣n rất trẻ và c̣n tin tưởng rất nhiều vào con người.
Và, ông hoàn toàn không có cái xa cách của người xem ḿnh là quan trọng. V́ thế, tôi đă hỏi ông một câu mà trước khi gặp ông tôi không nghĩ là ḿnh dám hỏi:
- Bác ơi, ngày 30 tháng Tư 1975, sau khi miền Nam thất thủ, Bác có bao giờ nghĩ đến chuyện tự sát hay không?
- Lúc đó, mỗi người có một quyết định riêng, không ai đúng ai sai. Riêng Bác, Bác không có ư định tự tử. Các con Bác đă mất quá nhiều, Bác không muốn chúng phải mất cha. Nếu bị giặc Cộng giết, Bác chấp nhận nhưng Bác không tự ḿnh làm điều đó với các con. Hơn nữa, Bác không có cái uất ức, đau khổ của một bại tướng v́ Bác chưa bao giờ nghĩ là ḿnh thua. Ḿnh chỉ tạm thời khó khăn v́ những thế lực quốc tế đẩy ḿnh tới đó, nhưng Bác muốn sống để xem mọi sự xoay vần tới đâu.
*
Nếu chỉ được dùng một từ để diễn tả Tướng Lê, tôi sẽ chọn “lăng mạn”.
Những quyết định cực kỳ cứng rắn, những hành động hết sức can đảm của ông đều bắt nguồn từ những t́nh cảm sâu xa. Chỉ có người rất lăng mạn mới đủ tin yêu để làm những điều phi thường như ông đă làm. Ông để vợ con cùng ở lại đương đầu với Cộng quân là v́ ông yêu sự “công bằng” mà ông đă nhắc đến mấy lần trong câu trả lời ngắn. Ông tử chiến v́ ông hết ḷng tin vào sứ mạng ǵn giữ miền Nam. Ông không sợ chết v́ ông không muốn phụ ḷng những người lính đă nằm xuống và những người lính đă dựa vào ông mà đứng lên từ những căn nhà cháy ra tro của họ.
Cống hiến của ông cho đời giống như những viên kim cương, tuyệt sáng và tuyệt cứng. Nhưng chúng đă được hun đúc từ phần lơi là những t́nh cảm tinh tuyền, và những giọt nước mắt. Sẽ không có kim cương nếu không có phần lơi đó.
Lịch sử Việt Nam có Tướng Phạm Ngũ Lăo gạt nước mắt, chia tay mẹ già đi đánh giặc. Có Tướng Trần Khánh Giư bỏ gánh than, từ giă đời ở ẩn để trở về cứu nước. Có biết bao chuyện nhờ dân gian ghi lại mà ngày nay chúng ta được biết.
Cho nên, tôi muốn ghi lại nồi chè bánh tráng của Tướng Lê Minh Đảo. Ghi lại lúc ông chấp nhận để các con ông cùng chung số phận với gia đ́nh lính. Ghi lại ḷng thương yêu và quư trọng vô bờ của ông với binh sĩ và vợ con của họ. Về lời ông nói, đùa mà rất thật “nếu trời cho sống đến hơn trăm tuổi, tôi vẫn muốn cống hiến thời giờ và sức lực cho Việt Nam tới phút cuối.”
Năm nay Tướng Lê đă tám mươi ba. Vinh, nhục, yêu, ghét, thăng hoa, đày đọa … ông đều đă trải. V́ thế, tôi viết bài này không phải cho ông. Mà để lưu lại vài mẩu chuyện về Ông Tướng Lăng Mạn cho mai sau. Để góp một chút tin yêu bởi v́ làm người Việt Nam rất buồn. Để cho chính tôi nhớ gương của Tướng Lê, lạc quan trong khó khăn và cố gắng làm những điều tốt đẹp nhất trong khả năng của ḿnh, hầu mong mai sau con cháu không phải ngần ngại nhận ḿnh là Việt.
Khôi An
(*) Lưu Đày – Nhạc và lời của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
Bài dịch tiếng Anh “Tướng Lê Minh Đảo tại Đại Học Stanford” và những câu trả lời sinh viên trên trang của SVSA (Stanford Vietnamese Student Assocication): http://svsa.stanford.edu/blackapril.html#leminhdao
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Năm 1957, sau khi tiếp thu các phi đoàn vận tải của KQ Pháp giao lại (như các phi đoàn Béarn, Franche- Comté và Sénégal đóng tại TSN), với cấp bực Trung úy, anh làm huấn luyện viên phi công vận tải tại Liên Phi đoàn 1 vận tải dưới quyền chỉ huy của Trung tá Nguyễn cao Kỳ.
Đầu năm 1958, anh được biệt phái sang Hàng Không Dân sự, lái phi cơ cho hăng Hàng Không VN (Air Vietnam) thay thế cho các phi công dân sự Pháp bị sa thải hồi hương.
Trường bay căn bản Marrakech, Morocco, 1952, Khóa 52F2, hàng ngồi (từ trái): Phan Thanh Vân, Lưu Kim Cương, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Hổ, Trịnh Hảo Tâm, Nguyễn Mai Lâm
Năm 1961, anh được gọi trở về Bộ Tư lệnh KQ để nhận lảnh nhiệm vụ mới. Anh được chỉ định chỉ huy và lái một trong hai chiếc “C̣ Trắng”, có nhiệm vụ đặc biệt bay thám thính, tiếp tế và thả dù các toán gián điệp biệt kích ra miền Bắc CSVN, (lúc bấy giờ chỉ có hai phi hành đoàn C̣ trắng được thành lập để bay ra Bắc theo kế hoạch hoạt động t́nh báo do CIA Mỹ tổ chức và điều động, một phi hành đoàn do Trung tá Kỳ chỉ huy và lái, phi hành đoàn thứ hai do Trung úy Vân chỉ huy. Gọi là C̣ Trắng v́ 2 chiếc phi cơ C47 dành riêng cho các phi vụ đặc biệt này đều được “sterilized”, tẩy xóa hết mọi cờ quạt, quốc huy, quốc hiệu để lại toàn thân chiếc phi cơ một mầu nhôm trắng toát).
Ngày 1 tháng 7 năm 1961, anh lănh một nhiệm vụ đặc biệt thay thế cho ông Kỳ, lái phi cơ ra miền Bắc để thả dù tiếp tế biệt kích. Trong chuyến bay định mệnh này, phi cơ của anh đă bị hỏa tiễn tâm nhiệt của phóng không CSBV bắn rơi lúc 01 giờ 15 phút rạng ngày 2-7-61, khi phi cơ bay sát từ mặt biển vừa vào đất liền. Máy bay bị rơi xuống một nơi thuộc xă Tô hiệu, huyện Kim sơn, tỉnh Ninh B́nh. Phi hành đoàn do anh chỉ huy và lái, gồm thêm 2 phi công phụ (Trung úy Phan khắc Thích, Thiếu úy Trần minh Tâm), 2 điều hành viên (Thiếu úy Tiêu huỳnh Yên, Chuẩn úy Phạm trọng Mậu), 1 Vô tuyến điện Viên (Trung sĩ Nguyễn văn Nở), 1 Cơ khí Viên (Thượng sĩ Phạm văn Đăng), ngoài ra c̣n có 3 Biệt kích Dù (Thượng sĩ Lộc, Trung sĩ Tiết và Thượng sĩ Khoa) thuộc pḥng 46 (sở Bắc, sau đổi thành Nha Kỹ Thuật).
Cả thảy 10 người trên phi cơ lúc bị bắn rơi xuống băi śnh lầy, rồi bốc cháy, người chết cháy v́ kẹt lại trong phi cơ, người bị thương nặng rồi chết sau đó, chỉ c̣n lại 3 người sông sót là anh, người Cơ khí Viên và 1 Biệt kích Dù. Cả 3 đều bị thương tích nặng và bị dân quân CSBV trên bờ ào ra bắt giữ. Sau một thời gian bị giam giữ hỏi cung tại trại giam Hỏa Ḷ Hà Nội, ngày 15 thàng 11 năm 1961, anh bị đưa ra Ṭa Án Quân Sự Trung ương CSBV xét xử cùng với 2 đồng hành với bản án như sau:
- Đinh như Khoa, Biệt kích Dù, 15 năm tù
- Phan thanh Vân, Trưởng phi Cơ, 7 năm tù
- Phạm văn Đăng, Cơ khí Viên, 3 năm tù
Sau khi lảnh án, anh bị đưa đi cải tạo ở trại Bắc Bạc (Ba v́, Sơn tây), rồi sau đó bị đưa lên giam giữ tại trại E ở Phố Lu (Lào Cai).
Năm 1971, anh được CSBV phóng thích sau một thời gian 10 năm (tù giam và quản thúc), và nhờ sự lo lắng của gia đ́nh người chị ruột, qua Hồng thập tự Pháp, anh được đưa sang Pháp để đoàn tụ với gia đ́nh và sinh sống.
*****
Hôm nay đă là 29 tháng Chạp, chỉ c̣n vài ngày nữa là Tết rồi. Tết năm nay là Tết Tân Hợi (1971) và đúng là cái Tết thứ 10 mà ḿnh sống bơ vơ, xa gia đ́nh, xa quê hương xứ sở.
Chiều hôm nay, sau khi hoàn thành xong chiếc giường đôi rẻ quạt, gă chính ủy (ủy viên chính trị) quản lư hợp tác xă mộc Đồng tiến ở thị xă Ba v́, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn pḥng và nói:
- Anh nghỉ việc sáng hôm nay, về lán thu xếp để chuẩn bị ngày mai về Hà nội.
Tôi thắc mắc:
- Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà nội có chuyện ǵ và về bao lâu?
Gă lạnh như tiền:
- Anh đừng thắc mắc, đó là lệnh trên của Trung ương, tôi cũng không biết lư do. Anh cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, và có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.
Ra khỏi văn pḥng cán bộ, tôi trở về lán thu xếp đồ nghề mà trong ḷng nghĩ ngợi miên man; lại cái ǵ đây? Được đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xă mộc này đă gần 2 năm nay, ngày ngày tháng tháng ḷng ḿnh lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng nề thầm kín mang trong người là “giặc lái Mỹ ngụy”
Năm 1961, sau khi lănh cái án tù 7 năm, là từ Hỏa Ḷ Hà Nội đến trại này trại kia, cuối cùng là trại E Phố Lu (Lao Cai), tôi đă “ngoan ngoăn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hưởng thêm 2 năm “tự giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đă thở phào nhẹ nhơm người khi được nhân dân, Đảng và nhà nước trả tự do, đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc, ”ngày động tối điểm” (ban ngày lao động: cưa xẻ, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước khi đi ngủ).
Tối hôm nay trằn trọc măi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện ǵ sẽ đến với mỉnh đây, tại sao lại bị đưa về Hà nội, tại sao…tại sao…nằm măi không ngủ được thôi th́ dậy, ph́ phèo vài điếu thuốc lào.
Ngoài lán các “đồng chí” đang quây quần bên đống lửa to, canh nồi bánh chưng. Nghĩ lại nếu không có cái lệnh đi Hà nội th́ giờ này ḿnh cũng ngồi ngoài đó v́ ban sáng ḿnh đă được phân công canh nấu bánh chưng tối nay.
Sáng rồi, chưa tới 9 giờ th́ thấy đă có một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đậu sẵn ở trong sân của Hợp tác xă. Tôi cũng đă sẵn sàng khi đồng chí cán bộ quản lư xuống kêu lên văn pḥng gặp cán bộ trung ương.
Vào đến văn pḥng là tôi khựng lại, nghĩ thầm trong ḷng: Lại cái ông Toán này nữa, cái ông cán bộ công an đă săn sóc ḿnh trong mấy năm qua, từ khi ḿnh được trở thành người tự do!!
Sau khi anh quản lư bảo tôi ngồi xuồng rồi đi ra, ông Toán mới chậm răi:
- Anh có được khỏe không? Hôm nay tôi lên gặp anh để đưa anh về Hà nội và sau đó đưa anh ra sân bay để anh đi Pháp đoàn tụ với gia đ́nh. Đảng và nhà nước đă rất khoan hồng đối với anh và đă chấp thuận lời xin của gia đ́nh người chị của anh ở bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đ́nh.
Nghe đến đây tôi như tắt thở, mừng đến nỗi nhịp tim đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tuy nhiên vẫn cố lấy b́nh tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đă rè, lập đi lập lại, nào là anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Đảng và nhà nước, nào là anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, trở về phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng và nhà nước v…và v…
Ông Toán nói tiếp:
- Đây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, c̣n đây là giấy máy bay của hăng hàng không Pháp Air France đi từ Hà nội đến Paris. Giấy máy bay này do người chị của anh mua và gởi sang cho chúng tôi để nhờ đưa lại cho anh dùng. Thôi chúng ta chuẩn bị lên đường kẻo trễ, anh c̣n có ư kiến, c̣n muốn phát biểu ǵ không?
Đứng dậy ra xe chân ḿnh bủn rủn, đi hết muốn vững. Đâu có ngờ!
Ra đến xe thấy cán bộ quản lư chạy lại:
- Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của hợp tác xă tặng anh, cầm theo mà ăn đi đường.
Xe lăn bánh rời Ba V́, bon bon trên đường hướng về Hà nội. Ngồi trên xe mà ḷng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, v́ chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật, hai bên đường cây cối trơ trụi, bụi đường tung tóe theo lằn bánh xe lăn, nhưng sao ḿnh thấy cái ǵ cũng vui tươi, cái ǵ cũng đẹp sáng, tưng bừng như…Tết.
Mải triền miên với trăm ngh́n ư nghĩ trong đầu, tôi không để ư đă băng qua Hà nội lúc nào và đang trên đường tiến về sân bay Bạch mai
Xe đến cổng phi trường th́ chạy chậm lại, tài xế lái xe vào đậu ở gần nhà ga hành khách, ông Toán bước xuống quay lại bảo tôi xuống xe theo ông vào trong làm thủ tục giấy tờ.
Tôi liếc nhanh quanh sân bay, ngoài băi đậu xa hai ba chiếc máy bay rải rác đậu, một chiếc máy bay kiểu Illouchine 14 của Nga (loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang chuẩn bị, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi ṿng phi cơ kiểm tra.
Tôi nghĩ bụng ḿnh sẽ đi với chiếc phi cơ này. Sau khi theo ông Toán vào quầy hành khách để tŕnh giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay…làm xong thủ tục, ông Toán nói:
- Thôi đến giờ rồi, anh theo ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hăy nhớ những ǵ anh đă tiếp thu được mà cố gắng trở thành người tốt.
- Dạ báo cáo cán bộ, dạ tôi xin cám ơn!
Ḿnh lập bập, hối hả theo sau độ năm mười người nữa ra hướng máy bay đậu. Nh́n những hành khách khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ Mao, chắc toàn là cán bộ đi công tác, c̣n ḿnh th́ chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép cao su B́nh Trị Thiên, tay quẩy túi bánh chưng bây giờ mới để ư thấy có bốn cái, ḿnh lững thững bước lên vào t́m chổ ngồi trong phi cơ. Nh́n anh phi công cao lớn, da đỏ có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để lên buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại… ngày nào!
Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của hăng hàng không Nga từ từ chuyển bánh ra phi đạo, ngừng lại chỗ thử máy và sau đó cất cánh nhẹ nhàng.
Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy bay lăn trên phi đạo rồi từ từ rời đất liền và theo chiều cao bay lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi chợt nghĩ đến... Một chuyến bay!!!
Rồi những kinh hoàng, hăi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa dần dần tiếp diễn qua tâm trí tôi như một cuốn phim:
Tôi nhớ rơ chiếc máy C47 trắng ngần do tôi lái khi vượt qua Vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển xâm nhập vào bầu trời của miền Bắc, dù c̣n ở ngoài khơi của biển Đông, cả 7 người trong pḥng lái chúng tôi đều bắt đầu thấy thần kinh căng thẳng; người này lo lắng liếc mắt nh́n người kia, không ai nói vơi ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, tôi c̣n nhớ lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay tự nhiên rung giật mạnh, không hề nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh ǵ, hai tay tôi ôm cứng lấy tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi c̣n thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ ôm chầm lấy nhau, rồi…tôi không c̣n biết ǵ nữa!
Không biết măi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nh́n trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đă chết rồi, hay đang… chết. Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nh́n thấy ǵ cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa ḥa với một thứ nước mằn mặn trên gương mặt loang lổ của tôi, “máu “ mặt tôi đày máu, tôi cố mở mắt nhiều lần nhưng vẫn không thấy ǵ, đầu tôi như có ai cầm chiếc gậy đập đều đều, tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng c̣n ư niệm ǵ về thời gian, không gian.
Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, măi khi tai tôi chợt nghe văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya: Chết tôi rồi, chết tôi rồi, nóng quá, nóng quá, chết…tôi rồi!
Tiếng kêu thảm thiết của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích ǵ được, cả một nửa người của tôi đă ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt từ xa xa cách chỗ tôi “đứng” độ vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt và những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi như nửa tỉnh nửa mê, chợt lờ mờ có ư niệm rằng chiếc C47 do tôi lái đă bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy!
Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra, lúc này đă nh́n được lơ mơ thấy khung cảnh đồng ruộng śnh lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe rơ tiếng người ḥ hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm.
Một ư thức bừng dậy thành phản xạ của sự sống c̣n ập đến như một đ̣n bẩy, tôi cố vùng vẫy, nhô người lên khỏi đám śnh lầy, nhưng tôi quá yếu, bất lực!
Tiếng quát tháo lẫn lộn của đàn ông lẫn đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập ḷe di động đốt sáng cả một góc trời, phần v́ khắp người đau như dần với bao nhiêu thương tích, phần v́ quá khiếp sợ, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đă quát tháo ầm ầm bên tai tôi mà tôi vẫn đứng im như một xác chết. Họ ḥ nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi śnh lầy.
Lúc này trời đă sáng tỏ, tôi lờ mờ thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, nuốt sống, ăn thịt tôi tôi đau đớn sức tàn, tôi sợ quá, nhắm mắt lại, rồi lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi rủa ập ngoáy vào tai tôi: Coi chừng, coi chừng, nó hăy c̣n sống, đập chết nó đi, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm!
Cuốn phim đến đây tự nhiên tắt ngay, tôi giựt ḿnh bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngả người trên chiếc ghế nhung của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều…trong máy bay gió lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống…với giấc chiêm bao vừa qua!
Với tay với cái mền đắp lên người mới nhớ ra các giấy tờ mang theo trong người, lần ṃ móc ra xem, ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công An Hà nội là giấy máy bay của hăng hàng không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường đi:Hà nội, Canton, Hồng kông. Paris.
Tôi nghĩ thầm trong bụng: tại sao ghé qua Quảng đông (Canton) đó là đất đai của Trung cộng, nếu mà lôi thôi trở ngại biết làm sao? Mải loay hoay với ngàn ư nghĩ lo lắng, tôi không để ư đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật cháy, cho đến khi người chiêu đăi viên đến nhắc tôi v́ máy bay chuẩn bị đáp. Phi trường Quảng đông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nhộn nhịp nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu, ngay trước nhà ga hành khách. Tôi được mời xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga.
V́ đă quen với cách thức đi lại của các phi trường quốc tế, tôi t́m ngay đến quầy tiếp khách đại diện của Air France. Sau khi tŕnh giấy tờ, giấy máy bay của tôi cho người nhân viên, một người tầu, bập bẹ nói tiếng Pháp, anh ta xem xong rồi nói:
- Hiện tại chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hồng kông, theo lộ tŕnh đă được chỉ định và trả tiền trước, chúng tôi sẽ lo liệu cho anh đi Hongkong bằng đường xe lửa, và khi đến Hong kong anh sẽ tiếp tục lấy máy bay đi Paris, anh chuẩn bị theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ.
Ngồi trên xe theo người nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu c̣n tâm trí nào để nhận xét! Nhà ga xe lửa Quảng đông thật nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lư. Người nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé và đưa tôi lên một toa giữa con tầu để t́m chỗ ngồi, may mắn t́m được một chỗ trống gần cửa sổ, anh ta chỉ cho tôi ngồi xuống và đưa tay bắt tay tôi chúc may mắn (bonne chance)
Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách ṭn ten theo từ khi rời Hà nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ cho quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tầu đù loại, đang chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp.
Trời đă xế chiều, tôi không có ư niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đă 4, 5 giờ chiều th́ xe lửa từ từ dừng lại v́ đă tới trạm ranh giới giữa Quảng đông và Hồng kông. Sau khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc quân phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của Sở Di trú (Immigration) lên toa xe để kiềm soát giấy tờ.
Khi họ đến chỗ tôi ngồi và sau khi xem xét giấy thông hành tôi tŕnh ra, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ giấy của tôi, xem xong rồi chậm răi nói:
Với giấy thông hành này của CS Hà nội cấp cho anh đi đường, v́ không phải là sổ thông hành chính thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua (transit) đất Hông kông 24 tiếng đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong kong, nếu không chúng tôi sẽ bắt giữ anh và trục xuất anh về Hà nội, anh có hiểu rơ lời tôi nói không?
Tôi xanh mặt, lẩm bẩm trả lời:
- Yes, yes Sir!
Tay run run cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả lại, bụng nghĩ thầm: Chết cha thằng nhỏ rồi, rồi đây biết lo liệu làm sao?
Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hong kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền gạch sạch mát của nhà ga, ḷng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt của thế giới tự do! Tôi nh́n đồng hồ nhà ga, đă hơn 6 giờ chiều, tôi vội vă len lỏi ra khỏi nhà ga, t́m đường ṃ về phi trường Kaitak v́ biết chắc đó là phi trường quốc tế của Hongkong
“Thả cọp về rừng”, may là đường xá ở Hong kong đâu có xa lạ ǵ với tôi khi tôi c̣n lái cho Air Vietnam và đă từng ghé qua ăn cơm bữa ở đây. Cất bước như vừa đi vừa chạy, băng ngang qua các phố xá đông nghịt người vui nhộn như cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức ǵ, vừa mệt vừa lo sao cho kịp đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris.
Vào đến phi trường là lúc phố xá đă lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển t́m đến quầy vé hăng Air France, tŕnh giấy máy bay để đi cho kịp chuyến AF 1002, cất cánh lúc 20 giờ đi từ Hong kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi đă nhanh mắt nh́n qua.
Người nhân viên hăng Air France sau khi ghi nhận và xem xét giấy thông hành của tôi, anh ta nói:
- Đây nhé, chúng tôi rất tiếc là không thể nhận cho anh đi trên chuyến bay này v́ anh mang trong ḿnh giấy tờ cùa CSBV và máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi e ngại rằng nhà cầm quyền Thái lan sẽ làm khó dễ cho anh, tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào có thuận lợi cho anh hơn th́ anh hăy đi.
Cầm giấy tờ người nhân viên đưa trả lại mà tôi “hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”. Chân đi không vững, tôi lần ṃ ra ghế băng ngồi nghỉ đợi, trong ḷng “trống đánh thùng thùng”, lo âu cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Chợt có ai đằng sau vỗ vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẻ nói bằng tiếng Pháp:
- Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân, Captain Air Vietnam? Đi đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?
Tôi ngỡ ngàng quay lại, một người đẹp trong bộ y phục chiêu đăi viên hàng không tươi cười đưa tay cho tôi bắt:
- Anh quên tôi rồi sao? Tôi là Francoise, hôtesse Lufthansa nè!
Tôi ngạc nhiên, sượng sùng nh́n người thiếu phụ quen quen không nói được một lời, chị ta tiếp tục huyên thuyên kể lể...
À! th́ té ra là Francoise Dupuis, nữ chiêu đăi viên bay cho hăng hàng không Đức, người mà thời xưa, lúc tôi c̣n lái cho Air Vietnam, đă từng được tôi mời mọc, ăn uống mỗi khi gặp nhau ở các escale Hongkong hay Tokyo…
Tự nhiên tôi thấy thoải mái, mừng lây với cái vui mừng vồn vă, hồn nhiên của người xưa, nay gặp lại nhau, tự nhiên tôi thấy có can đảm để “bốc” với nàng, đem "nghề của chàng", kể lể cuộc đời đă qua với hoàn cảnh hiện giờ của tôi cho nàng nghe. Nghe xong nàng vui vẻ:
- Anh đừng lo, tôi sẽ cố gắng thu xếp giúp anh. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Francfort lúc 10 giờ đêm, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ t́m cách thu xếp ổn thỏa cho anh tránh khỏi qua sự kiểm soát của Thái Lan, anh nhớ nhé. Thôi anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp.
Tôi vui mừng vô cùng, lững thững đi theo người đẹp mà trong ḷng thầm nghĩ sao lại c̣n may mắn gặp được cảnh "thánh nhân đăi kẻ khù khờ".
Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “từ cơi chết t́m về tự do” cuối cùng tôi đặt chân xuống phi trường Orly (Pháp) ngày 7 tháng 2 năm 1971.
C̣ Trắng Phan Thanh Vân
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Ngày đó, vào khoảng năm 1977, tôi đang bị bọn VC bắt đi tù v́ tội có ông Tổng Thống đầu hàng. Cả bọn tôi, đa số là các Sĩ Quan trẻ (cấp bậc từ Thiếu Úy tới Đại Úy) được tập trung ở trại Suối Máu, sau đổi qua Trảng Bom (Biên Ḥa). Bọn VC độc ác bắt chúng tôi làm việc cật lực nhưng không cho ăn uống tử tế, thuốc men hoàn toàn không có . Ai sống được th́ sống, ai về chầu ông bà ông vải th́ cứ việc đi. Phương cách giết người này thật là độc ác, giết nguời mà không cần gươm súng. Mỗi ngày đi lao động bên ngoài, anh em cố gắng kiếm được thêm cái ǵ th́ ráng mà kiếm để sống cho qua ngày. Có người lượm được cái trứng chim, bắt được con thằn lằn, rắn mối...cũng đă cho rằng ḿnh có số sung sướng lắm rồi. Dân làng th́ ở ngoài xa, thỉnh thoảng mới gặp một vài người. Bọn VC quái ác không cho dân tiếp xúc với anh em chúng tôi và cũng cấm tuyệt anh em chúng tôi không được lân la tới khu dân chúng. Đói, đói lắm, đói thê thảm, đói lả người ra! Nhưng anh em c̣n trẻ, sức chịu đựng cao, tinh thần càng cao hơn, nên ráng sống đợi một ngày mai tươi sáng.
Bọn VC khoe với chúng tôi: " Đảng ta đă . . . Đại Thắng Lợi"
Th́ chúng tôi lại vui mừng nh́n nhau, nói trong ư nghĩ: "Anh em ta . . . Đợi Thắng Lại!"
Ruộng mía, khoai lang, khoai ḿ của đồng bào ở chung quanh rất nhiều, nhưng chúng tôi không đụng tới, v́ đó là của dân, mồ hôi nước mắt của họ. Họ cũng đói như chúng tôi vậy, đâu thể nào lấy của dân được. Ngày xưa, chúng tôi bảo vệ họ, ngày nay không làm ǵ được nữa nhưng không v́ đói mà mất tư cách. Đồng bào biết chúng tôi đang bị đầy đọa, họ cũng thương cảm lắm, họ cũng đă t́m đủ mọi cách mà giúp đỡ chúng tôi. Bọn VC cũng biết như vậy, cho nên mỗi lần phải đưa chúng tôi di chuyển ngang khu dân cư, bọn chúng đi kè kè sát bên, không cho ai tiếp xúc với ai. Muốn mua thêm ít đường, ít muối cũng khó ḷng mà làm được!
Thế nhưng trời cao c̣n có mắt mà, không sao! Miễn được thấy dân là ḷng người lính thấy ấm lại rồi! Buổi sáng hôm đó, chúng tôi đang trên đường đi lao động. Từ xa, chúng tôi đă thấy khu dân cư ở đằng trước, và thấy bóng dáng những trẻ em, những cô gái đang tung lúa, thẩy khoai lang ra trước nhà để phơi. Khi tới gần khoảng chừng chục thước, chúng tôi thấy một bóng dáng phụ nữ cầm thúng thẩy khoai lang ra ngoài đường đi, chỗ chúng tôi đang bước thấp bước cao. Chúng tôi tuyệt đối không đụng tới tài sản của dân, dù là mấy củ khoai lang nhỏ bé, nên vẫn cứ thế mà bước đều. Mấy hôm sau, khi đi ngang qua xóm nhà này, chúng tôi lại thấy bóng dáng người phụ nữ này. Cô cũng dáng điệu như cũ, cầm thúng khoai lang thẩy ra đường đi. Lần này cô nói bâng quơ:
- Má à, mấy đám khoai lang hư này, ḿnh đâu có bán cho ai được! Thôi, dục bỏ, nha Má!
Cô vừa nói vừa thẩy khoai lang ra chỗ chúng tôi.
Cô đứng ở xa nói tới, chúng tôi cũng không đi gần nên chỉ nghe cô nói như vậy thôi. Nói là cô gái th́ cũng là nói vậy thôi, chứ không thấy rơ h́nh dáng, nói chi tới mặt mày.
Mấy hôm sau nữa, chúng tôi lại có dịp đi lao động ngang qua khu dân cư này. Chúng tôi lại thấy cô gái hôm trước. Cô vẫn đứng xa xa, nhưng lần này cô cố t́nh cầm khoai lang thẩy vào chúng tôi rồi bỏ đi, dáng vẻ rất là b́nh thường.
Tối về khu trại, chúng tôi bàn tán về cô gái, về những củ khoai lang mà cô thẩy ra ngoài. Chúng tôi cùng đồng ư là thái độ của cô rất lạ: Không có ai phơi khoai lang ở chỗ đường đi đó, mà cũng không có ai dục khoai lang trên đường đi như vậy cả.
Một người bạn - tên Phúc - đă nói với tôi:
- Tao nghĩ rằng cô gái này muốn cho ḿnh những củ khoai lang đó. Chứ nếu cô muốn dục đi, th́ thiếu ǵ chỗ dục. Hơn nữa, khoai lang dù là hư, không cho người ăn được th́ để cho heo ăn, dễ ǵ mà dục bỏ!
Lần sau nữa, khi đi ngang khu nhà dân đó, chúng tôi lại thấy cô. Lần này chúng tôi không thấy cô thẩy khoai lang ra nữa, mà đứng yên ở phía xa xa chỉ trỏ chỗ này, chỗ kia, ư như muốn chỉ cho chúng tôi những củ khoai lang mà cô đă thẩy ra trước đó.
Tối về, chúng tôi lại có dịp bàn tán. Phúc nói với tôi:
- Tao có nh́n thấy mấy củ khoai lang ngay trên đường ḿnh đi. Tao thấy khoai lang kỳ này cũ rồi, không tươi như bữa trước nữa. Tao nghĩ rằng, cô thẩy ra cho tụi ḿnh lượm, nhưng không ai lấy, nên cô lại thâu lại để dành, bữa nay thẩy ra nữa. Chắc chắn là cô cho tụi ḿnh đó, tụi mày đồng ư không?
Tất cả cùng có ư nghĩ đó! Chắc là cô c̣n có ḷng thương những người lính sa cơ đói khổ, mà tặng những củ khoai lang ăn lót ḷng. Củ khoai lang nhỏ nhoi không đáng là bao, nhưng tấm ḷng của cô thật đáng quư! Chẳng có ai ở không mà chờ anh em chúng tôi đi gần tới mới thẩy khoai lang ra. Cũng chẳng có ai có nhiều khoai lang để mà thẩy chơi như vậy. Chắc chắn là khi chúng tôi đi khỏi, cô lại thâu lại những củ khoai đó mà để dành thẩy lại cho chúng tôi vào ngày hôm sau. Anh em chúng tôi cùng đồng ư là kỳ tới, nếu có đi ngang khu nhà dân, nếu cô c̣n có ḷng hảo tâm mà thẩy khoai lang ra, chúng tôi sẽ chia nhau lượm.
Dịp may đă tới, chúng tôi lại có dịp đi ngang khu nhà dân cũ, và lại thấy bóng dáng cô từ xa. Cô lại thẩy khoai lang ra rồi bỏ đi. Chúng tôi đă bàn với nhau trước rồi, nên chia ra làm nhiều toán nhỏ: Toán đi trước bao chung quanh đám quản giáo để chúng khỏi nh́n thấy phía sau, toán th́ đi chậm chậm lượm thật lẹ những củ khoai lang bỏ vào giỏ xách thật nhanh. Lính mà! Chúng tôi thanh toán chiến trường khoai lang lẹ lắm, không thua ǵ những lúc thanh toán bọn quỷ đỏ trên chiến trường trước đây.
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi lại chia ra nhiều toán để dắt bọn quản giáo đi ra xa, trên đầu gió, để đám c̣n lại lo nướng khoai . Đói ḷng ăn được củ khoai lang. Ôi, sung sướng nào hơn!
Đám này ăn xong th́ lại ra canh bọn VC để đám kia trở lại ăn những củ khoai lang t́nh nghĩa đó. Lần sau đi ngang khu nhà dân, đến phiên Phúc lo lượm những củ khoai lang của cô gái hảo tâm. Buổi trưa, Phúc nói nhỏ với tôi:
- Đúng như tao dự đoán, mày ạ! Kỳ này cô ta cho ḿnh toàn là khoai mới, bự và ngon hơn khoai bữa trước nhiều lắm! Chắc cô đă núp đâu đó, thấy ḿnh đă lượm hết khoai kỳ trước nên mới đưa khoai lang mới ra đó!
Nhờ những củ khoai lang đó mà anh em chúng tôi có thêm sức khỏe. Nhờ ở cảm t́nh mà người dân đă dành cho chúng tôi qua củ khoai lang mà chúng tôi thêm được sức mạnh để chịu đựng cực khổ, chờ đợi ngày mai trời lại sáng. Chúng tôi ăn những củ khoai lang đó của cô gái tốt bụng, nhưng chỉ nh́n thấy dáng của cô từ phía xa xa mà thôi, chứ chưa bao giờ được nh́n thấy mặt cô cả. Cũng chỉ duy nhất có một lần được nghe giọng nói của cô mà thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi vẫn sống, vẫn hiên ngang với đời.
Rồi ngày mai đă tới, ngày tôi và Phúc được bọn VC trả về nguyên quán. Chúng nói là chúng tôi đă... học tập tốt. Nhưng đối với chúng tôi, với riêng tôi và Phúc, chúng tôi vẫn vậy. Muôn đời chúng tôi vẫn là người lính VNCH và càng căm thù bọn Việt Cộng hơn bao giờ hết. Tôi được gia đ́nh lo liệu sẵn, một thời gian ngắn sau khi về lại nhà, tôi đă may mắn vượt biên trót lọt và qua định cư ở Melbourne xứ Úc Đại Lợi.
Tôi cũng có nghe bạn bè nói, Phúc cũng đă vượt biên và hiện ở Sydney, cùng xứ Úc với tôi.
Một ngày đẹp trời vào năm 1990, vợ chồng tôi có dịp đi Sydney và đă ghé thăm Phúc.
- Mày lấy vợ hồi nào? Lấy từ hồi ở VN hay qua đây mới lấy? Bao nhiêu đứa con rồi? Đứa lớn bao nhiêu? Đứa nhỏ mấy tuổi. Chúng tôi nói như chưa bao giờ được nói.
Phúc kể, đă lấy vợ từ hồi ở VN, hai vợ chồng cùng vượt biên qua đây. Vợ của Phúc chỉ cười cười khi nghe chồng giới thiệu là tôi ở cùng trại tù với anh từ năm 1977.
Một lúc sau, vợ Phúc bưng ra một đĩa mà Phúc nói rằng rất đặc biệt: Khoai lang Dương Ngọc!
- Ăn đi mày, ăn để nhớ lại cái thời bị tù đầy, bị bọn VC vo tṛn bóp méo!
Tôi sáng mắt lên, vồ lấy củ khoai lang, ăn không kịp bóc. Tại sao lại phải bóc vỏ? Vỏ khoai cũng là khoai vậy! Tại sao lại vứt bỏ đi?
Bao nhiêu kỷ niệm xưa quay trở lại. Tôi cũng đă kể chuyện khoai lang cho vợ tôi nghe nên tất cả đều cùng nhau góp lại chuyện xưa. Tôi vừa ăn vừa ngậm ngùi:
- Không biết cô gái đă cho ḿnh những củ khoai lang đó, bây giờ ra sao? Có ai biết cô đó là ai không? Cô ta c̣n ở đó hay đă trôi nổi đi phương trời biền biệt nào rồi?
Phúc trầm ngâm một lúc rồi trả lời tôi:
- Cô gái cứu sống ḿnh bằng những củ khoai lang... đang ở trước mặt mày đó! Tao cưới cổ rồi!
Thật là không ngờ! Vợ chồng tôi ngạc nhiên tới há hốc miệng, rớt cả củ khoai lang ra ngoài:
- Mày... mày nói cái ǵ? Cô này đây... vợ mày đây... là... là cô gái cho tụi ḿnh khoai lang ở Trảng Bom? Mày... nói chơi hay... nói dỡn vậy? Thiệt không? Làm sao mà mày kiếm ra cổ ? Mà... phải thiệt là cổ không? Làm sao mày biết là cổ mà dám nói là cổ ? Dám lấy cổ?
Vợ Phúc (Dung) mỉm cười giải thích cho chúng tôi:
- Em đâu có gueng, đâu có biết ảnh là ai đâu! Tự dưng ảnh tới kiếm em rồi... hỏi cứ (cưới) em đó chớ!
Phúc giải thích rơ ràng hơn:
- Khi c̣n ở trong trại tù, ḿnh đă nói chuyện với nhau thật nhiều về cô gái đó, tao thầm cám ơn cô đă c̣n nghĩ đến những người lính VNCH đang mắc nạn. Tao đă nghĩ trong đầu rằng, nếu có dịp trở về, thế nào cũng đi t́m cô gái đó mà cảm ơn. Nếu cô ta c̣n độc thân, tao sẽ cưới cô ta làm vợ. Mặc dù chỉ với một hành động nhỏ nhoi tặng những củ khoai lang cho chúng ta, nhưng cô đă chứng minh được rằng, cô là người chống lại bọn VC, cô là người đă c̣n nhớ đến người lính VNCH xưa. "Miếng khi đói bằng gói khi no" mà! Ḿnh đang sa cơ mà c̣n có người dám nghĩ tới ḿnh, th́ làm sao mà không cảm động cho được? Đến khi được thả về, tao trở ra Phan Thiết ở với cha mẹ anh em một tuần, th́ nói với ba má là tao kiếm đường làm ăn. Tao quay trở lại Biên Ḥa, đi vào khu Trảng Bom, nói với Tổ Trưởng vùng đó là tao ở Biên Ḥa, muốn về làm rẫy, mua đất trồng khoai lang. Ông này dẫn tao đi giới thiệu với những gia đ́nh đang trồng khoai lang, có dư đất muốn bán. Nhà nào tao cũng vào làm quen để hỏi mua đất, hỏi kỹ thuật trồng khoai, nhưng mục đích chính là kiếm cho ra cô gái đó. Tao cũng như mày, như những anh em trong trại, đâu có ai biết mặt mũi cô ra làm sao? Ngay cả dáng người cũng không nh́n được, nên khó kiếm hết sức. Nhưng tao c̣n nhớ được giọng nói của cô ta khi nói: "Má à, khoai lang của ḿnh hư hết rồi, không bán được đâu, dục đi nha Má!" Tao nhớ có nhiêu đó thôi. Rồi duyên số cũng giúp cho tao kiếm ra bả. Buổi chiều hôm đó, khi tao đă hết hy vọng kiểm cổ rồi, đang trên đường đi tới nhà Tổ Trưởng chào từ giă. Chợt tao đi ngang qua một căn nhà ở cuối xóm, thấy một cô gái đang gom khoai lang bỏ vô thúng. Tao ngừng lại hỏi bâng quơ:
Cô lựa khoai lang đem bán hả?
- Cô này không quay lại, vừa tiếp tục lựa khoai, vừa trả lời:
- Tui lựa khoai lang dư đặng mai đem thẩy cho mấy người lính "học tập cải tạo".
Tao thấy coi bộ trúng mối rồi, bèn hỏi tới:
- Khoai lang trồng cực khổ mới có. Bộ cô có bà con đang học tập trong đó hay sao mà lại cho họ khoai lang?
- Tui đâu có gueng ai ở trỏng đâu! Bị tui thấy họ tội nghiệp th́ tui giúp đở chúc ít dzậy mà! Hồi xưa, mấy người này đi lính để giữ cho làng xóm được yên, khỏi bị bọn VC phá đám giết hại người ta. Nay những người này bị bắt ở tù, ḿnh phải nhớ ơn họ, phải giúp họ chớ! Hổng giúp được nhiều th́ có mấy củ khoai lang cũng giúp họ chút đỉnh dzậy mà!
Mới nghe bả nói là tao nhớ lại liền. Đúng y là giọng nói "Má à, đám khoai lang này hư rồi . . ." mà tao nhớ không bao giờ quên. Tao lại c̣n kỹ càng hỏi cho ra lẽ tại sao bả lại giúp mấy đám tù cải tạo như ḿnh? Nghe bả trả lời ngon lành như vậy là tao chịu quá đi, nhất định giá nào cũng phải làm quen, nếu được, sẽ cưới bả làm vợ. Lính mà! Dễ lắm! Giản dị lắm: "Hễ ai thương lính là lính thương lại liền".
Tao lại đang trong t́nh trạng độc thân... "Tṛn năm năm lính, chưa hề có bạn tâm t́nh". Tới luôn! Tao đi tới đi lui nhiều lần làm quen với bả, với gia đ́nh bả, nói là xin học làm rẫy. Khi biết rơ gia đ́nh bả, và biết bả c̣n đang độc thân, chưa có đám nào, tao mới trở về Phan Thiết kể lại chuyện của bả cho ông bà già tao nghe và nói ư định muốn cưới cô gái quê, nhưng có ḷng thương lính đó. Ba má tao đồng ư tao muốn lấy ai th́ lấy, miễn là hai vợ chồng hạp với nhau là được rồi. Nhưng mà cô đó có lấy tao hay không th́ lại là chuyện khác nữa.
Tao trở lại nhà Dung phụ làm rẫy tiếp. Trong một bữa nghỉ trưa ở ngoài ruộng, chỉ có một ḿnh tao với bả, tao mới nói rơ tao là ai? Đă cảm cái tấm ḷng của bả và muốn được cưới bả làm vợ. Bả rất ngạc nhiên mà nói với tao, y như bả vừa mới nói với mày vậy: - Tui đâu có gueng biếc ǵ anh đâu? Tui cho mấy anh khoai lang là cho nguyên đám đó chớ đâu phải cho một ḿnh anh! Bị tui nhớ hồi xưa mấy anh đă đi lính giữ làng xóm tụi tui, chứ tui đâu có biết anh ở trỏng đâu? Mà anh . . . cứ (cưới) tui làm chi?
Làm chi th́ tao không biết làm chi, nhưng tao nói tao cảm tấm ḷng của bả mà cưới bả, vậy thôi. Tao nói:
- Ít ra th́ anh với em cũng c̣n giống nhau ở một điểm là "THƯƠNG LÍNH".
Nói ba điều bẩy chuyện một hồi, bả cũng không biết nói sao nữa, kêu tao muốn ǵ th́ về nói chuyện với ba má cổ, chứ cổ... hổng biết. Vậy là chịu rồi! Tao mừng quá, cả hai đưa nhau về gập ông già bà già của bả, tao lại kể rơ lai lịch của tao ra và xin đưa cha mẹ tới xin cưới Dung. Hai ông bà ngạc nhiên hết sức, cuối cùng nói là:
- Nếu vậy đúng là duyên số rồi. Con Dung nhà tui nó đâu có gueng biếc ǵ ông đâu. Nó xin tui ít phai lang, nói là để cho mấy ông bị tù cải tạo, tội nghiệp mấy ổng quá. Ai dè có ông ở trỏng, ông thương nó, ông được dźa rồi th́ ráng lội bộ đi cùng khắp chốn kiếm cho ra nó đặng xin 'cứ' nó! Đó là do Ông Tơ Bà Nguyệt cột đó, chứ hổng có ai bầy ra được đâu!
Tụi tao định ngày, đưa cha mẹ tao tới làm đám hỏi, xong rồi mới mời ổng bả và Dung về nhà tao chơi. Tới Phan Thiết, thấy nhà cửa của ba má tao th́ ổng bả và Dung hoảng hồn, v́ nhà tao hồi đó cha mẹ cũng c̣n nhà cửa, cơ sở làm ăn khá lắm! Dung đă nghéo tao ra sân mà nói:
- Nhà anh giào như zậy, mà anh cứ tui là gái guê làm chi? Thôi, thả tui źa Trảng Bom tui làm rẫy sướng hơn!
Tao phải nói khó với bả:
- Mấy thứ đó là của cha mẹ anh, chứ anh... "Trên Răng Dưới . . . Dế ", đâu có cái ǵ nữa đâu! Có cái mạng cùi cũng nhờ em cho mấy củ khoai lang mới c̣n sống tới ngày nay. Mà em đừng có lo, ḿnh c̣n đủ chân đủ tay, ḿnh tự làm mà nuôi thân, chịu không?"
- Anh nói dzậy th́ tui chịu!
Chịu hay không chịu th́ cũng trễ rồi! Lính đă nói là Lính làm:
- Em có ư kiến nhiêu đó là đủ rồi, mọi thứ c̣n lại để anh lo, đừng có lộn xộn ǵ hết nữa!
Rồi tụi tao làm đám cưới. Cưới xong, tao lo đường vượt biên. Ông bà già vợ thẩy một mớ khoai lang lên tàu, vậy là tụi tao dông. May mắn cho tụi tao, trời yên bể lặng. Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, tàu tụi tao cặp được tới Bidong. Tao chọn đi Úc cho nó lẹ và an toàn. Khoảng hai tháng sau tụi tao tới Sydney, gởi điện tín cấp tốc về cho ông bà già tao hay. Hai ổng bả mừng quá, lập tức mướn xe chạy tới Trảng Bom cho ba má Dung hay. Ba Má Dung cũng mừng quá, xá trời xá đất cám ơn lia chia. Ba của Dung cười lớn:
- Dzậy là thằng rể tui khỏi sợ bị Diệc cộng bắt cải tạo nữa rồi ha!
Má của Dung hỏi thêm:
- Ở bển có đất cho tụi nó trồng khoai lang hông dzậy, anh chị sui?
Tụi tao ở bên đây th́ cũng giống như tụi bay vậy, ra sức làm mà lo cho gia đ́nh, con cái, lo cho cha mẹ bên Việt Nam. Tụi tao có hai con rồi. Bây giờ bả hết dám hỏi:
- Anh " cứ " tui làm chi, nữa rồi.
Tụi tao lo làm nuôi con ná thở, đâu c̣n th́ giờ mà hỏi nữa! Hỏi nữa tao để ........ đẻ nữa!
Người lính VNCH
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Trong ống kính là gương mặt của một cô gái chừng mười bảy mười tám tuổi. Mái tóc khô cứng xơa dài dưới cái nón tai bèo bự hầu như che hết phần đầu. Chiếc áo bà ba đen bên ngoài thân thể bé loắt choắt chưa tới tuổi dậy th́. Cây súng CKC bắn từng phát một c̣n cao hơn cả thân người.
Trước mặt Quang là một nữ VC đang ngồi trên chiếc xuồng nhỏ chứa được cỡ năm người lớn. Hiện tại chỉ có hai, cầm lái là một phụ nữ không thấy mặt nhưng dáng vẻ trưởng thành sốc vác v́ sở hữu một bờ lưng khỏe, chắc, đưa hẳn về hướng khẩu súng của Quang .
Người đàn bà tiếp tục chèo chống trong khi người trẻ ngồi với tư thế thoải mái không ngó ngàng ǵ đến hai bờ kênh, vô tư trước tám cặp mắt của toán thám sát nằm phục kích. Chắc họ đă qua lại nơi này nhiều lần, hơn nữa đây là khu an toàn giải phóng họ không có ǵ để sợ.
Đứa con gái đang ngồi, gầy g̣ như thiếu ăn lâu năm. Tuổi này chắc gia nhập quân đội giải phóng từ hồi mười bốn mươi lăm tuổi. Cô gái du kích đột nhiên cởi khẩu súng đặt dựa sườn ghe, chĩa mũi về phía bờ kênh pḥng hờ trường hợp có biến. Hành động lành nghề đối với một đứa con nít .
Toàn bộ chiếc ghe và hai VC nằm gọn trong tầm ngắm của Quang cùng toán thám kích . Chỉ chờ tiếng súng đầu tiên của trung đội trưởng. Cách Quang bốn thước là Chín. Ngắm mục tiêu hồi lâu Chín kín đáo hạ súng hất hàm nhẹ về phía Quang.
Ngón tay trỏ của Quang đặt trở lại nhè nhẹ lên c̣.
T́nh báo kỳ nầy sai , không có phái đoàn huyện ủy nào về dự đại hội. Kinh nghiệm nhiều lần phục kích cho biết chiếc ghe đầu chỉ ḍ đường. Thực ra không có cá lớn cỡ huyện ủy th́ dớt đỡ mấy đứa này về tŕnh diện Ông Quận Trưởng chắc cũng được tiền thưởng.
Quang lại tập trung vào gương mặt đứa con gái đang ngồi. Theo lẽ thường cỡ tuổi này nó phải có chút da thịt, ngực nhú lên theo thân thể. Thế mà ngoài gương mặt hốc hác, đen sạm mái tóc tua tủa rễ tre, thân thể nó chẳng thấy dấu hiệu nào về sự trưởng thành thiếu nữ.
Quang chầm chậm điều chỉnh ống nhắm, tập trung vào gương mặt lát nữa sẽ nổ tung như xác dưa hấu khi viên đạn M18 sẽ xuyên qua. Đột nhiên đứa con gái nói vọng lên người đàn bà đang chèo thuyền vài tiếng Quang không nghe rơ. Chỉ thấy người đàn bà lắc nhẹ đầu và tiếp tục chèo. Đứa con gái gỡ chiếc nón tai bèo xuống đứng hẳn lên đối diện với mũi súng đă lên c̣. …
Chợt đứa con gái móc từ trong túi áo bà ba đen loang muối trắng mồ hôi một gói nhỏ bằng nắm tay người lớn. Nó bốc lớp lá chuối ở bên ngoài. Nó đưa lên cho người đàn bà, chị ta lắc đầu nhẹ. Đứa con gái ngồi xuống bẻ đôi chấm vào gói nhỏ hơn trên bàn tay c̣n lại. Một vắt cơm nắm và gói muối pha ớt đậm màu đỏ. Đứa du kích gái đang đói…
************
Trước khi về chỉ huy trung đội thám báo này Quang là trung đội trưởng của một đơn vị trực thuộc một sư đoàn dạn dầy chiến trận ở vùng đất nổi tiếng với muỗi ṃng đĩa vắt. Hồi nhập ngũ Quang đă tự nhủ lỡ mặc đồ lính th́ phải hoặc xanh cỏ hoặc đỏ ngực. Nhiều thằng cùng khóa cho là Quang bị tửng v́ môn học nào trong quân trường Quang cũng siêng năng. Có lần Quang nghe mấy thằng hỏi “ Mầy khùng hả Quang ? học chỉ để đủ điểm ra trường thôi, làm ǵ ghê vậy !” Quang cười mỉm, đậu cao khi ra trường sẽ được ưu tiên chọn đơn vị, và Quang đă biết trước ḿnh sẽ đi đâu rồi.
Ra trường thứ hạng đậu không được như Quang mong muốn. Đơn vị mà Quang ưa thích đă đầy, thủ khoa á khoa cộng thêm mấy thằng ở tốp mười lăm đă ghi danh hết. Thế hệ của Quang toàn điên v́ đây là đơn vị tuyển chọn rất kỹ mà xác suất sống sót thấp nhất trong toàn quân đội.
Quang đành chọn đơn vị thứ hai là một sư đoàn bộ binh sừng sỏ, và cũng là mục tiêu nhắm tới của mấy đứa con nít phải thay áo học tṛ bằng áo trận. Quang về tŕnh diện đơn vị mới, đầu tiên chỉ làm phó đàn anh để rút kinh nghiệm. Không kể sĩ quan hay mấy ông thượng sĩ già trong đơn vị, những người lính dạn dày sương gió cũng là những ông thầy có rất nhiều điều học hỏi.
Dần dà Quang trưởng thành, cứng cỏi trên trận địa. Quang chỉ huy lính dưới quyền bài bản và bắt đầu nhận được sự ngưỡng mộ của lính. Có những lúc Quang như thằng điên nghe tiếng súng địch ở đâu là cắm đầu xung phong lên mặc cho sĩ quan chỉ huy chửi như bắp rang trên máy. Lính thấy Quang nổi cơn khùng cũng đồng loạt điên máu xung phong cảm tử. Chiếm xong mục tiêu ngồi thở dốc Quang mới nhận ra sự ngu xuẩn của ḿnh. Nhiều người lính nh́n ngưỡng mộ cũng có người khen “ Ông thầy ngon quá !! “ .
Sợ muốn rớt tim ra ngoài nhưng Quang đâu dám thổ lộ tâm sự . Chỉ biết mỗi lần nghe tiếng nổ và ngửi thấy mùi thuốc súng đầu óc Quang bị kích thích đến nỗi không c̣n biết suy nghĩ ǵ nữa, cứ xung phong trước mặt rồi ra sao th́ ra. Sợ quá hoá khùng ….
Tới giờ này Quang vẫn chưa bị sứt mẻ ǵ ngoài một viên đạn xuyên đùi, hai miếng B40 nhỏ bằng nửa móng tay lồi lên thành hai cục ở bên ngực phải ( lành rồi thỉnh thoảng chúng lại nổi lên bắt ngứa ).
Hồi c̣n ở đơn vị này mỗi lần hành quân may mắn lắm mới đem đuoc trung đội thiếu ( mười tám mạng ) về nguyên vẹn. Lính nói Quang mát tay không sát lính. Cũng mong như thế c̣n hơn các trung đội trưởng khác trở về hậu cứ phải nhức đầu với mấy bà quả phụ ( Quang biết ḿnh sẽ không chịu nổi ). Bị thương th́ OK, nặng một chút cũng là dịp để nghĩ dưỡng ở hậu cứ gặp mặt gia đ́nh. Miễn đừng trùm bông sô. “Cẩn thận dùm con nha mấy cha “
**********
Quang không biết nhậu tửu lượng yếu, nhưng hành quân về hễ lính bày tiệc Quang không từ chối . Riết rồi tửu lương cũng tăng lên, c̣n bữa nào gục tại bàn thi lính sẽ khiêng về đắp mề . Tỉnh lại thấy lính lo chu đáo nhiều lúc Quang rất cảm động. T́nh huynh đệ chi binh c̣n đậm đà hơn cả anh em ruột thịt.
Những người lính thám báo trong đại đội được tuyển chọn từ các trung đội nghĩa quân và DPQ. Họ là người địa phương biết tường tận đường đi nước bước, từng gia đ́nh. Có khi du kích phía bên kia là bạn thời thơ ấu trong xóm. Hết nhiệm vụ họ lại xách súng trở về nhà chừng mười lăm phút đi bộ. Nhiều khi khó phân biệt được nhiệm vụ của một quân nhân hay một dân sự, v́ sự khác biệt duy nhất là khẩu súng .
Ở đơn vị này Quang thỉnh thoảng tưởng như đang sống giữa một gia đ́nh sinh toàn con trai. Ra trận hoặc đi kích c̣n lệnh lạc, chỉ huy. Về nhà quăng hết chẳng phân biệt quan hay lính. Ở sư đoàn tác chiến, hệ thống hành quân rơ ràng, cộng thêm t́nh huynh đệ chi binh giữa quan và linh dù không nói ra nhưng vẫn có một giới hạn nhất định. Tuỳ thuộc vào cảm t́nh của lính trong cung cách chỉ huy đối xử với họ, đôi khi quyết định phần nào sự sống chết. Lính thương th́ dám nhảy ra đỡ đạn cho ông thầy, lính ghét bỏ mặc chỉ huy cho VC xâm nhập cắt cổ ( từng xảy ra ở những đơn vị khác ). Linh dưới quyền sau một thời gian e dè xem xét ông quan búng ra sữa đă đổi cái nh́n hoàn toàn khác .
Những lần hành quân giải vây cho một tiền đồn hoặc đánh vào cứ điểm của VC, lính của Quang xung phong vào mục tiêu không e dè chậm chạp. Chỉ chờ tiếng hét “ lên “ là cả quan lẫn lính chẳng c̣n biết mạng sống của ḿnh sẽ ra sau, cứ nhằm những bóng đen trước mặt mà bắn. Cụ thể họ lao vào như thiêu thân gặp lửa đến nỗi nhiều địch quân bị bắt sống với nét mặt kinh hoàng không kịp nổ một phát súng .
Những lần xung phong như vậy, lính hai bên nổ súng không kịp nh́n mặt. Khi trúng đạn cái bóng phía trước giật nẩy người lên bật ngả ra phía sau hai tay giang cao, y như người lính giăy đành đạch chạy lụp xúp bên cạnh Quang mươi phút trước. Chết mà không biết ḿnh bị bắn bởi thằng nào mặt mũi ra sao. Những xác chết được sắp xếp cho chôn tập thể hoặc trực thăng chở về hậu cứ trả lại cho gia đ́nh chôn cất .
Những tù binh bị bắt sống hốc hác thùng th́nh trong bộ quần áo xanh lá cây đậm, đặc trưng của quân phục VC. Toàn là con nít mười lăm mười sáu tuổi vừa đủ sức cầm vững cây súng trong tay. Trong chiến trận những đứa con nít nầy cũng hùng hổ hung tợn như điên cuồng xông vào đối thủ đang tấn công họ.
Bây giờ tàn chiến trận c̣n sống nhưng ở trong tay đối phương, họ sợ hăi. Bao nhiêu lần họ được học những giờ chính trị rằng lính Ngụy là những tên giết người không gớm tay sẵn sàng mổ sống tù binh để ăn gan mật. C̣n súng trong tay c̣n anh hùng, giờ bị trói lại họ như những con cá nằm trong thớt.
Quang ít dịp nh́n tận mặt những đứa con nít như thế. Đang đánh nhau không thấy rơ, chỉ biết nả đạn theo quy luật chiến tranh “ bắn chậm th́ chết “ , ai nhắm giỏi và bóp c̣ trước sẽ thọ hơn.
Nhiều lúc nh́n những đứa bé bên kia Quang tự hỏi liệu có đủ can đảm đâm lưỡi lê vào những lồng ngực nhô xương sườn như thế này không. Rất may từ đó đến giờ Quang chưa phải đối diện với chuyện như thế. Chiến trận kết thúc sớm hơn trước khi hai bên phải đánh xáp lá cà .
Có lần đám tù binh ngồi trước mặt ngoại trừ hai người lớn khoảng trên dưới ba mươi, c̣n lại toàn con nít la hoảng khi một người lính của Quang rút lưỡi lê đi về phía họ. Mấy đứa con nít mặt xanh như tàu lá chuối, khóc hu hu la hoảng :
- Bẩm quan xin đừng giết con, con đầu hàng rồi
Người lính đang bước tới chưng hửng :
- Mày nói ǵ vậy thằng nhỏ ?
- Dạ xin đừng đâm lê con, con lạy ông
Người lính bật cười :
- Đâm mày làm cái ǵ, giết mày th́ tao đă bắn ngay từ ngoài kia rồi..Đưa tay đây !!
Người lính thiện nghệ thọc lưỡi lê giữa hai bàn tay bị trói chặt cắt đứt
- Đưa ra phía trước
Người lính ra lệnh , người tù binh sợ hăi rụt rè làm theo. Đám c̣n lại giờ đă hiểu rón rén liếc nh́n e dè. Người lính cười, đưa lưỡi lê dọa như sắp sửa cắt cổ, khiến cả đám nhóc t́ la rú . Người lính cười ha hả :
- Nhát như tụi bây mà cũng ra trận đánh nhau với tụi tao th́ làm sao thắng được ?
Anh rút gói thuốc lấy ra một điếu, mồi, đưa cho đứa gần nhất :
- Hút đi rồi chuyền cho mấy thằng kia…
Đám tù binh toàn lính chính quy dường như vẫn chưa tin được, run rẩy đưa cả hai tay bị trói đón điếu thuốc hút lấy hút để.
Quang chứng kiến chuyện từ đầu đến cuối. Anh ngó lơ cho người lính dưới quyền ḿnh đốt thuốc rồi đưa tù binh để mọi chuyện xảy ra cách tự nhiên. Nếu anh nh́n thấy rơ nét những gương mặt thất sắc nầy ngoài chiến trường không chắc anh và đồng đội anh đủ can đảm để nổ súng. Toàn là một đám con nít…
*************
Đứa con gái nuốt vội miếng cơm nắm trong miệng rồi lấy b́nh nước ở ngang hông đưa lên môi làm một ngụm. Tất cả đang diễn ra rơ mồn một trong ống ngắm của Thiếu úy Quang. Nếu anh nổ súng bây giờ, cả toán sẽ làm theo và hai người nữ du kích không có cơ hội nào sống sót.
Đây là lần đầu tiên anh nh́n thấy gương mặt rơ từng nét của kẻ thù. Cái cử chỉ nhai cơm nắm chấm muối ớt vội vàng của đứa con gái chỉ ra rằng nó đang đói lắm. Một phát súng nó sẽ bật ngửa ra phía sau mặt nát bét. Nó sẽ không kịp chụp lấy khẩu súng dựa vào bệ ghe để bắn trả. Người du kích lớn tuổi hơn cùng số phận. Mạng sống của hai con người vốn không quen biết ǵ với tám lính thám sát sẽ chấm dứt bởi những họng súng đang chĩa vào họ.
Đột nhiên Quang run tay. Anh không kiểm soát được nhận thức của ḿnh giữa nhiệm vụ trung đội trưởng thám sát và sự xúc động của một người anh. H́nh ảnh đứa con gái suy dinh dưỡng trên chiếc ghe ọp ẹp nhắc anh nhớ lại đứa em gái út ở nhà .
Chẳng có ǵ giống nhau giữa hai đứa ngoại trừ em anh cũng ở tuổi này. Nó được ăn uống đầy đủ được đi học, được hưởng mọi thứ nên không gầy g̣, thiếu sức sống. Nó lại b́nh yên giữa thành phố bên cạnh mẹ với đầy đủ yêu thương che chở. Chẳng ai sẽ làm hại nó, chẳng ai muốn lấy mạng nó bằng việc xiết c̣ súng. Cũng chẳng có mũi súng nào chĩa vào nó …
Chỉ cần một cái siết c̣, mọi chuyện sẽ kết thúc, đứa con gái không c̣n phải chịu đói, toán thám kích sẽ trở về nhà nghỉ ngơi sau nhiệm vụ với chiến công kèm theo tiền thưởng. Sẽ có những bữa nhậu nhẹt quên đời, và chỉ vài ngày sau sẽ chẳng c̣n ai nhớ tới hai người du kích bỏ xác giữa gịng sông vào một buổi xế như hôm nay. Nắm cơm sót lại sẽ rơi xuống nước nuôi cá. Tám người lính thám sát sẽ nhận nhiệm vụ mới sau vài ngày nghỉ phép.
Nhưng Quang không thể siết ngón tay được. Có một cái ǵ ngăn anh lại, đồng đội gần anh nhất nhướng mắt nh́n anh tỏ vẻ khó chịu. Làm đi anh Quang, anh c̣n chờ ǵ nữa ? Quang chỉ khẽ lắc đầu anh biết giải thích ǵ đây? chờ chút chờ chút, con cá mập chưa xuất hiện chờ chút…
****************
Chiếc ghe của hai du kích đă vượt khá xa gần đến gốc khuất. Kinh nghiệm cho Quang biết sẽ chẳng có cá mập nào xuất hiện nữa, chỉ có thế, hai du kích nữ. Mười hai phút đă trôi qua từ lúc nh́n thấy chiếc ghe do thám. Tin t́nh báo lần này trật lất …
Quang nhớ tới đứa con gái vẫn thường đi học ngang nhà anh mà nhiều lần anh rất muốn t́m cách nói chuyện. Cô gái mười chín tuổi đang học lớp mười hai ở một trung học lớn nổi tiếng . Má anh cũng bằng ḷng và đă từng gợi ư nếu anh muốn bà sẽ t́m cách gặp gỡ cha mẹ cô gái để đi tới.
Nhưng Quang chưa dứt khoát. Lấy vợ khi vẫn c̣n là một sĩ quan nhí, lại ở vị trí tuyến đầu trong trận chiến như thế này không nằm trong chương tŕnh tương lai của anh. Lỡ chẳng may một viên đạn hoặc mảnh pháo vô t́nh cắt đứt động mạch chính trên thân thể anh? cô gái cũng có vẻ ưng chịu v́ cứ nh́n thấy Quang cô lại bẽn lẽn cuống quít vân vê tà áo. Chờ chiến tranh chấm dứt em ơi…
Chưa bao giờ Quang tự vấn về cuộc chiến mà anh đang là một phần tử trong đó. Quốc gia anh đă sinh ra, lớn lên học hành đang gặp nguy khốn. Tổ quốc yêu cầu và con cái đứng lên cầm súng để bảo vệ. Đủ tuổi đủ sức khỏe Quang hưởng ứng, cầm lấy vũ khí, ra trường cứ nhắm quân thù mà bắn, hoàn toàn không cần biết địch thủ tên ǵ bao nhiêu tuổi sinh quán tại đâu, gương mặt như thế nào ? bắn để mà sống và bắn để bớt đi nguy cơ tổ quốc sẽ lọt vào tay địch. Nhiều lúc lật ngửa mặt xác chết c̣n có phân nữa v́ phần c̣n lại đă nát bét Quang chắt lưỡi. Con nít nhà ai …? Sao mày lại ở trước họng súng của tao? tao đâu có muốn bắn v́ giết mày không đáng !! tao thích một đối thủ dày dạn xứng đáng, để chạm mặt với kẻ thù như hai giác đấu trong đấu trưởng La Mă đồng tài đồng sức .
Đánh nhau với con nít như thế này không cần đến M16 v́ hai tay trần Quang biết ḿnh có thể chấp ba đứa. Những đứa trẻ c̣i cọc. Lính tráng ǵ như thế này: ra trận với cái nón cối làm bằng giấy bồi ép cứng, chân mang dép râu hoặc giầy vải, thùng th́nh trong bộ quần áo mỏng manh phần phật trong gió. Trang bị như thế mà đ̣i ra trận chống chọi với bom B52, với đạn pháo 105, 155… và những người lính dày dạn kinh nghiệm u đầu lỗ trán là cái chắc.
Quân đội của anh thiện chiến can đảm , đánh nhau không biết sợ. Nhưng giỏi cở nào mà bị buộc vào thế pḥng thủ th́ kéo dài đến trăm năm sau cũng chẳng thắng được. Giá như anh cùng đồng đội được xung phong đánh thẳng vào đầu năo địch ở ngoài kia th́ chắc cuộc chiến này đă chấm dứt lâu rồi
Trong khi đó địch thủ của anh thoải mái hơn, họ toàn quyền quyết định mọi chuyện trên chiến trườn. Rút lui, tụ tập, bồi dưỡng, vạch ra mục tiêu mới để tấn công, hoàn toàn dựa vào những lợi thế của ḿnh.
Biết như thế nhưng những người ở cấp bậc như anh và lính dưới quyền làm ǵ được ?
**************
Chiếc ghe đă mờ khuất từ sau khúc ngoặc. Hai mạng người c̣n nguyên. Cô du kích c̣i cọc loắt choắt không biết rằng đă giữ được mạng ḿnh cùng với đồng đội chỉ v́ đang đói. Ít nhất được sống thêm một ngày nữa, và thân thể gầy g̣ vẫn c̣n cơ hội làm đầy bao tử ḿnh bằng vài gói cơm nắm…
Quang uể oải trườn người nhè nhẹ về phía sau, những người lính dưới quyền cũng làm theo. Họ phải thận trọng v́ vẫn chưa thoát khỏi khu vực nguy hiểm. Khoảng năm mươi thước, Quang dừng lại. Anh điếng người nh́n ra ḍng sông giờ đặc nghẹt ghe tam bản với khoảng tám tới mười lính ngụy trang mỗi ghe và tiếng nói chuyện như chỗ không người. Cả toán thám sát thu người hết sức, một tiếng thở một tiếng động nhẹ cũng không nghe thấy. Lính thám sát nằm như chết trong bụi rậm mặc dù đă ngụy trang thật kỹ. Cầu trời khấn phật cho địch (cũng ngụy trang kín mít ) không phát hiện ra họ đang nằm dí trên bờ.
***************
Tám người lính đi như chạy, người kế bên sát Quang hỏi nhỏ :
- Thiếu úy, làm sao ông biết được chuyện nầy vậy? t́nh báo đâu có cho biết ?
Quang ậm ừ, mồ hôi c̣n vă ra trên trán. Nhờ vào nắm cơm chấm muối ớt, nhờ vào thân thể bé loắt choắt suy dinh dưỡng của một đứa con gái lẹt đẹt như con nít, và nhờ vào một t́nh cảm không định h́nh rơ rệt chợt xuất hiện trong ḷng Quang đă đưa cả trung đội thoát khỏi sự tàn sát của tiểu đoàn 482 địa phương lừng danh.
Nguoiviettudo
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Kính tặng những ai, đă một lần đến và sống tại thành phố Pleiku để hồi tưởng về kỷ niệm.
Thời chiến tranh Việt Nam, Pleiku là một địa danh mà hầu như ai cũng biết. Một thành phố, (đúng ra là một khu thị trấn) dân cư thưa thớt, mà đa số là dân người Thượng. Một nơi đèo heo hút gió xa tít tận miền cao. Vậy mà tiếng tăm, và vang bóng một thời.Cuộc chiến đă làm nên tiếng tăm? Hay nói đúng hơn là “người lính” đă làm nên một địa danh nổi tiếng này.Ngày trước, ai đă từng là lính chiến? Ai đă từng là kẻ “bị đày”? Và ai đă từng là dân “tứ chiếng”, là kẻ “giang hồ”? Th́ đất địa Pleiku là nơi được mời gọi.
Tôi đến Pleiku vào giữa năm 1969. Không phải là ǵ ǵ cả, mà là một sĩ quan mới ra trường. Về đơn vị binh chủng Lực lương Đặc biệt, SQ hoặc HSQ mới ra trường là phải đi tác chiến, thử lửa một thời gian. Ai cũng vậy. Coi như phải chấp nhận thử thách, gian nguy, phải rèn luyện “da ngựa dậm ngh́n” cho đáng mặt làm trai.Những ngày đầu mới đến Pleiku thật lạ lẫm, chán chường. Một phố thị chỉ như là một thị trấn nhỏ lại lắm người. Dân địa phương th́ ít mà tứ xứ th́ nhiều. Những năm trước (từ 1966-67), từ khi có bước chân các “chú Sam” đến là sôi động hẵn. Người ta nói: Mỹ đến đâu là như có “mật” ở đó. Đàn ong, lũ kiến, ruồi nhặng bay theo. Có lẻ cũng không sai, v́ từ dạo đó, Pleiku tiếng tăm lừng lẫy.Phố xá nhỏ hẹp. Phố Pleiku chỉ có 5-7 con đường ngang dọc. Đường phố chính là Hoàng Diệu, đi từ đầu đến cuối đường, hút chưa tàn điếu thuốc. Chung quanh th́ làng mạc thưa thớt dân cư. Một thị trấn vùng núi, đèo heo hút gió. Vậy mà, những ǵ ở nơi khác có là Pleiku thời dạo đó vẫn có – có đủ cả. Có quán xá, có bar, có nhà hàng, có vũ trường, có đĩ điếm, có trác tán, ăn chơi… Dân tứ phương đổ về, góp phần cho Pleiku bao thứ hay, thứ dở. Người ta về làm ăn, về t́m việc, sinh nhai, sinh kế kiếm tiền. Về để kiếm sống, và cũng về … để chết.Một bộ Tư Lệnh Quân đoàn nằm đó, và một phi trường lớn cũng ở đó (phi trường Cù Hành). Ngày đêm xe cộ tấp nập tới lui và máy bay lên xuống không ngớt. Từng đoàn quân, từng đơn vị, lính ở đâu cũng lần lượt kéo về, ghé qua, trú đóng. Nhiều thứ lính, nhiều đơn vị, binh chủng, được gọi là “thứ dữ”, thứ “bất trị”, đều có mặt. Nhiều chủng tộc, sắc dân. Không lừng lẫy, tiếng tăm sao được? Người ta hát, qua câu vè ví von: “Pleiku đi dễ khó về, trai đi bỏ mạng, gái về nát thây”. Nghe mà phát ớn.Tuy nhiên, nói vậy, tiếng đồn như vậy, nhưng mà không hẵn là vậy. Thật sự th́ Pleiku không dữ dằn, không khắc nghiệt lắm đâu. Mà là một nơi dễ mến, và cũng “thân thiết”.Tôi đă đến đấy gần hai năm và khi ra đi, cảm thấy nhiều lưu luyến. Xin kể:Pleiku có khí hậu giông giống như Đà Lạt. Một vùng đất cao nên khí hậu mát quanh năm. Cây cảnh hoa màu, Đà Lạt trồng được thứ ǵ th́ Pleiku cũng trồng được thứ đó: bông hoa và rau trái. Ai đă có đến vườn hoa Phú Thọ? Một xóm ngoại ô (chỉ cách thị xă vài cây số?) với nhiều vẻ nên thơ, t́nh tứ, đẹp không ngờ. Hoa rất nhiều và đủ thứ. Hoa khoe săc muôn màu. Ngoài hoa là cây ăn trái. Mít ngon đặc sản vùng này. Tha hồ mua, tha hồ hái trái và tha hồ ăn, cho dầu “kẻo nhựa vân tay”. Mít, hoa chỉ là cái cớ. Nếu vào Phú thọ, khách c̣n t́m nhiều cái khác nữa: Cùng mấy em đi dạo, t́m “sầu riêng”, “măng cụt”, hái “vú sữa” chín mềm, mân mê “mận hồng đào” da trơn thơm ngát (nghĩa bóng). Mặc sức mà thưởng thức. Thú vị làm sao! Nhưng mà cũng phải cẫn thận, coi chừng. VC cũng thường ṃ ra và mời đi “du ngoạn”..Đi dạo biển hổ. Phong cảnh đẹp và thơ mộng. Thiên nhiên đă ưu đăi cho vùng đất địa rừng núi Pleiku. Một cái hồ khá là rộng, chu vi hàng mấy cây số (tôi không được rơ diện tích, nhưng thấy là lớn rộng). Nước phẵng lặng xanh trong. Bao quanh từng khoảng cây rừng, sương giăng mờ mịt. Nghe nói biển hồ không có đáy? Nước không bao giờ cạn kiệt. Một đồi đá thấp, nơi vui chơi, ḥ hẹn rất thơ mộng, rất trữ t́nh. Có am, có chùa, tượng phật, cây cảnh. Từ trên đỉnh dài xuống mé mặt hồ, từng nơi, từng chổ, hấp dẩn, gọi mời. Đă có biết bao mối t́nh hẹn ḥ, thề ước tại đây? Pleiku nắng bụi, mưa bùn? Những ngày mưa dầm rả rít, mưa không dứt, thành phố trở nên ăm đạm. Vậy mà cũng ít ai “an phận” nằm nhà, nằm queo doanh trại để mà nhai gạo sấy, thưởng thức lương khô? Nếu không phải bận công tác, trực hành quân th́ cũng “bay” ra phố, vô quán cà phê, quán nhậu. Hay ít nhất cũng tạt vào “lữ quán” Bà Tám (cầu số 3) để giải buồn. Ở đây, các em tươi mát, chí nghĩa, chí t́nh. Tiền không có cứ “ghi sổ”, lương lănh trả sau. Bà Tám rất là điệu nghệ.
Nắng bụi? Đúng là như vậy. Bụi đường đất đỏ, màu đỏ gạch, bám vào trên thân thể, trên áo quần, trên nón, trên giày…Dầu anh đi về đâu, nếu một lần ghé qua Pleiku, người ta vẫn biết: anh về từ “miền đất đỏ bụi mù” Pleiku, phố núi.Dấu giày in phố núi - Bước chân anh lấm bụi hồng - Đất Pleiku, bụi mờ vươn theo nắng - Lê gót phong trần, anh một thuở dừng chân. Pleiku hầu như con gái khắp tứ xứ, khắp mọi miền. Đủ “kiểu”, đủ “cở”: Từ cô gái Huế nằng nặng giọng nói nghe êm tai đến các nàng “nẩu” (dân Phù Cát, Phú Yên, xứ Quảng). Quen nàng, chỉ nghe nàng nói cũng đă thấy vui tai. Dân miền Nam, tôi cứ “hả?” hoài mà không hiểu được nàng nói những ǵ. Các em B́nh Định, Nha Trang, Tuy Ḥa, Sài g̣n, miền Tây, và cả dân Bắc (Kỳ) cũng không thiếu. Pleiku hầu như qui tụ “bông hoa” khắp mọi miền đất nước.
Đă có nhiều cơ hội, nhờ quen với Tiểu đoàn 20/CTCT. Ban văn nghệ Tiểu đoàn qui tụ khá nhiều ca sĩ – con gái khắp mọi miền – Vài ba tuần lễ, một tháng mở “bale”, mở tiệc rước mời. Rước cả những “em Pleiku” (cở tuổi choai choai 16, 17, 18… ham vui, thích nhảy). Đến để mà tha hồ hát ca, nhảy nhót.
Đơn vị B17/LLĐB, thời Thiếu Tá Ngô đ́nh Lưu (tay chịu chơi, hào hoa phong nhả) ông cho lập một “vườn tao ngộ”. Trồng hoa kiểng, có ghế đá, xích đu, có bàn ngồi ngắm trăng, uống rượu, tán gẩu nói chuyện phào. Các cô rất thích. Thích v́ được ch́u chuộng săn đón. Ca hát nhăy nhót cho đă, mời các em ngắm, dạo vườn hoa – hoa muôn sắc, hoa muôn màu – các em rất thích. Thích th́ cứ ngắm, cứ chơi. Và… thích nữa… th́ cứ ở qua đêm cũng được…Nhờ thế, mà Pleiku dù là xứ “bị đày”, vẫn không thấy buồn, thấy chán. Vừa đi hành quân, lội rừng, đánh giặc, vừa chơi bất cần đời mà cảm thấy cuộc đời… vẫn đáng sống. Chiến tranh dù nghiệt ngă, chết chóc, dù hủy hoại mọi tương lai. Đời ĺnh dù phải sống nay, chết mai, vẫn không sợ. Kẻ này đi, người khác đến, qua bao tháng năm, vẫn cứ chiến đấu, cứ vui chơi. Nếu không vui, nếu không “xả lán” quên đời th́ làm sao mà chịu nổi. Cứ chơi, cứ lăn xả, và cứ… quên ḿnh. Pleiku vẫn luôn là nơi yêu đời, vui sống.Không vui chơi ở đơn vị, th́ vui chơi ở các tửu đ́ếm, nhà hàng. Hai cứ đ́ểm: Hoàng Liêng, Mimosa, là nơi “đóng quân” hàng đêm của lính. Có tiền th́ vung vít, ít tiền th́ một ly cà phê đá, một gói thuốc cũng đủ cho “nữa đêm về sáng”. Giờ giới nghiêm không là quan trọng. Chưa say, chưa xỉn chưa về. Say quá, gục ngă, nằm đường, có Quân Cảnh chở đưa về. Cùng lắm là “kư củ”. Cả mạng sống c̣n chẳng màng, sá ǵ năm, mười ngày “trọng cấm” lẻ tẻ.Ngang tàng mọi nơi, ăn chơi mọi chổ. Và có lẻ từ tính vung vít bạt mạng, chơi không biết sợ của lính núi rừng mà địch quân phải nể sợ. Sợ những thằng lính liều mạng, liều ḿnh. Liều mà đánh giặc, giữ vững được đất nước quê hương. Sau này, quê hương, đất nước có phải bị mất đi là tại, do ai? Tại những tên (ngồi mát ăn bát vàng) hèn nhát, khiếp nhược. Chắc chắn không phải tại mấy tên lính “ba gai” chẳng bao giờ biết sợ, bất cần đời, coi thường mạng sống
Cà phê Hoàng Lan, những đêm không ngủ được, những lần nhậu xĩn quắc cần câu, ghé Hoàng Lan để thưởng thức hương vị tách cà phê. Đắng bờ môi mà ngọt ngào t́nh cảm. Mùi hương thoang thoảng. Hương hoa (từng nụ) Ngọc Lan phảng phất về đêm. Hương hăng hắt của mái tóc thả lững bờ vai của em (bé) Monique H’ Lem, người con gái Thượng lai Tây có dáng dong dỏng cao, mũi thẳng, cặp mắt lắng sâu màu xanh lục, đôi môi mọng, cười rất duyên, và… đẹp đéo chịu được. Tôi đă ghiền và đă mê “Hoàng Lan” hầu như một dạo. Trời xui đất khiến để tôi, dân trai xứ miền Tây (thiếu ǵ con gái đẹp) lại xúc động, mê say một người con gái Thượng xứ bụi mù. Không biết ai đă từng đến Pleiku, và đă từng “uống” cà phê Hoàng Lan (1970). Xin xẻ chia chút tâm t́nh này. Trên bốn mươi năm. Bây giờ vẫn nhớ.
C̣n nữa! Quán bún về đêm, có một “O” xứ Huế. Giọng nằng nặng, êm ái nhẹ nhàng, quyến rũ làm sao. Em chỉ là người làm công chạy bàn mời khách. Vậy mà đêm nào không ghé, không thưởng thức vị bún ḅ thơm lừng, ăn ớt vào “cay té lưỡi”, nước mắt tuông tràn, th́ về nhà không ngủ được (v́ đói). Em bé Huế dễ thương ơi! Bây giờ, em ở đâu? Chắc đă chồng con, đă già đi, da mồi tóc bạc? Nếu em c̣n sống? Dẫu sao, kỷ niệm một thời nơi xứ nắng bụi mưa bùn, cũng c̣n “một chút ǵ để nhớ, để thương”... Pleiku, một phố thị nhỏ mà đi không giáp. Đi hoài vẫn c̣n chổ để đi. Nếu có được một em bên cạnh đi không biết mơi, không biết chán, và thời khắc cũng như ngưng đọng, ngừng trôi. Các em là dân tứ xứ, và các anh cũng từ mọi nẻo về đây. Bọn anh v́ “bị đày” mà đến, c̣n các em do “tự nguyện” mà về. Về đây đi em? Về để bắt gặp và làm quen (cả làm t́nh) với những tên lính “bụi” như anh. Chắc cũng không phải em ham tiền, ham cao sang danh vọng, hoặc ham làm kiếp “giang hồ” mà là do định mệnh an bày sắp đặt? Ḿnh không tránh được. Cuộc đời lính, kiếp giang hồ, thân phận giống như nhau? Có các em để đời các anh thêm ư nghĩa (dù không trong sạch, chả thanh cao). Nhưng các em cũng đă góp phần, góp sức cho cuộc chiến, cuộc đời. Dở hay. Hay dở? Cứ mặc! Tầm thường hay thánh thiện? Chẳng màng! Chiều Biển Hồ. Một buổi chiều, sau chuyến hành quân về, chờ vự vụ lệnh (thời gian đó, đi phép bằng SVL), đi Sài g̣n. Chúng tôi, hai thằng mượn chiếc xe Jeep của chỉ huy phó để đi một ṿng phố xá. Nói là chỉ đi dạo phố, chứ thực sự là đi kiếm chổ nào đó để giải khuây.Trời xế chiều, Pleiku vắng ngắt một số đường. Hai đứa vừa đảo một ṿng vẫn chưa có ư định đi đâu. Một chiếc xích lô ngược chiều chạy tới. Trên xe hai nàng con gái đẹp mặc áo dài. Trời, mặc áo dài đi dạo phố giữa xế trưa th́ không phải là dân địa phương. Tên chạy xích lô cũng điệu, chạy chầm chậm và ngừng lại trước đầu xe Jeep. Tôi dừng xe, bước tới. Hai người đẹp có ư hỏi t́m địa chỉ nhà. Tôi móc ví trả tiền xe.
- Xin đừng ngại. Hai cô về đâu tôi…, xin phép, chúng tôi có thể đưa hai cô đi. Tụi tôi chỉ đi chơi, đang rănh…
Một nàng e dè. Nàng kia bước xuống đưa địa chỉ t́m nhà.
- Chị em em từ Qui nhơn lên t́m nhà đứa bạn. Địa chỉ này…
- Đường Hai Bà Trưng. Cũng không xa mấy! Tụi tôi đưa hai cô đi. Nếu hai cô không ngại.
- Sợ phiền các anh!
- Không sao. Tụi tôi cũng muốn làm việc nghĩa. Vả lại, rất hân hạnh được các cô cho phép.
Thằng bạn nhanh nhẩu tiếp xách cái túi hành trang để vào xe và trịnh trọng mời hai quí nương lên xe yên vị….
Chó ngáp phải ruồi! Buồn ngủ gặp chiếu manh.! Ở đâu mà khiến xui như thế này?
Vừa đi, vừa gợi chuyện. Th́ ra hai cô giáo lên Pleiku chơi. Cũng muốn t́m biết đây đó một vài nơi xinh đẹp ở xứ bụi mù. Trời c̣n sớm. Mời hai nàng cùng đi một ṿng Pleiku cho biết, và sau đó là ra viếng cảnh biển hồ.Một buổi chiều quá là mộng, là mơ, làm quên đi bao gian khổ chiến trận mấy ngày qua: leo rừng, lội núi. Và quên cả cái sự vụ lệnh đi phép đang chờ. Tôi, thằng bạn, cùng hai người khách bất chợt thật là vui. Hai nàng cũng thành tâm và quyến rủ. Bờ hồ sương giăng lăng đăng. Mặt hồ lăn tăn một ít cơn sóng gợn buổi chiều hôm. Cảnh vật quá mộng, quá thơ, quá hửu t́nh. Hai thằng lính hành quân về chưa kịp hớt tóc, chưa kịp diện đồ. Bù xù tóc tai, áo quần nhà binh xốc xếch, vẫn không làm suy giảm những ân t́nh của hai em gái hậu phương – hai cô giáo miền biển mặn, cát vàng khát khao “t́nh anh lính chiến”.Thêm một đêm, và gần một ngày (hôm sau) với t́nh yêu thương nồng thắm. “Hai mươi hai” giờ, quả là ư nghĩa, quả là thú vị cuộc đời.Chúng tôi chia tay, hẹn ngày tái ngộ, đưa hai nàng về địa chỉ hai nàng cần t́m. Lưu luyến chia ly, giă từ, ḥ hẹn…Tôi về, năn nỉ thiếu tá chỉ huy phó gần đứt lưỡi. Ông chỉ giận dỗi một lúc, rồi mọi việc cũng qua. Lên Ban 1 nhận sự vụ lệnh, bay Sài g̣n đi tiếp mấy ngày (phép) c̣n lại.
T́nh người bản Thượng
Làng Pleimrong, cách Pleiku khoảng 30km. Là một buôn làng giàu có thịnh vượng nhất vùng. Có một trại lực lượng đặc biệt (do Đ/úy Báu làm trưởng trại). Hầu hết biệt kích quân là người Thượng (khoảng một tiểu đoàn (350-400 quân)). Mỗi lần đi hành quân vùng Pleimrong là coi như đi dưỡng sức, v́ địch (khi đó:1970) chỉ lẻ tẻ đơn vị nhỏ. Một vùng khá an ninh nhờ Đ/Úy Báu thường xuyên tung quân hành quân lục soát.. Một lần, tôi cùng đơn vị (tiểu đoàn) BKQ/ Tiếp ứng về đó hành quân, các đại đội th́ đóng bên ngoài. Tôi, SQ phụ tá Toán A174 (chỉ huy TĐ)/BKQ/TƯ - chỉ theo với nhiệm vụ cố vấn - nên tà tà đi nh́ều chỗ cho biết.
Buồn, không làm ǵ, đi vào mấy nhà Thượng (kiếm những nhà giàu). Sức giàu của một nhà Thượng ở đây không thua ǵ người Kinh. Nhà sàn, cây danh mộc, mái ngói. Tài sản có hàng bạc triệu (năm 1970): một đàn ḅ 5-7 chục con, đàn dê cũng 5-6 chục. Heo lúc nhúc, gà lung tung chạy khắp vườn. Mua một con (gà) lớn nhỏ đều đồng giá. Nếu con nhỏ, sau này cũng lớn vậy thôi, núi rừng nuôi nó (người dân thượng bảo vậy). V́ thế không có chuyện so sánh lớn bé. Có một lần, vào dịp Tổng Thống Thiệu đến thăm, và ông được dân làng đăi rượu cần. Hai cái “ché” chứa rượu cần dành đăi tổng thống, trị giá 200.000 đồng/cái. Dân làng tổ chức tiếp đón rất ŕnh rang.Nhà giàu, có con gái –thuộc hàng tiểu thơ – không làm ǵ, thường ở nhà dệt vải. Trông “tiểu thơ” ngồi dệt vải cũng quí phái lắm. Dệt những thứ thổ cẩm (từng miếng vừa vừa dùng làm xà rong, khăn choàng, có thể may áo dài) màu sắc sặc sở rất đẹp. Các nàng cứ lo dệt, dệt trên nhà sàn lót gổ đẹp. “Khách” đến chơi được lịch thiệp chào mời vào nhà. Nói chuyện, các nàng có thể nghe, nói được tiếng kinh (tiếng Việt) nhưng không rành lắm. Như vậy là có thể chọc ghẹo và làm quen. Gặp trai Kinh, hầu như mấy nàng cũng thích, tuy hơi e ngại. Ít nói, chỉ hay cựi. Thân mật, ngồi sát vào nhau, sờ soạn, mó may, không phản đối, có phần như…thích? Ngay cả sờ ngực, sờ vú, hôn hít… Nhưng mà “bắt cái nước” th́ tuyệt đối không, trừ khi là chồng nàng. Đó, dễ dăi như vậy đó, mặc t́nh mà vui chơi, mà thân mật. Sờ ngực khá thú vị, ngực căng cứng, no tṛn. Hôn th́ mùi hăng hăng như khét nắng. Cũng v́ em dễ dăi, em thích. Cũng tại ḿnh ham vui, thích khám phá t́m của lạ. Chứ không ham muốn ǵ đâu. Gái thượng mà không lai (lai Pháp) th́ không thấy ǵ là đẹp. Xin lỗi nha! Nhưng tiến xa hơn nữa, hoặc sàm sở th́… coi chừng. Có thể bị mét (báo cáo), bị thưa v́ có thái độ xấu xa. Tới tai ông tỉnh trưởng Đ/tá Yaba là rắc rối. Đ/tá Yaba rất uy quyền, rất có uy tín, được toàn dân thượng tin yêu. Ông bảo vệ người thượng, rất thẳng thắng với quân đội kinh (nếu có hành vi sai phạm). C̣n nhớ, có một lần đi chơi, thăm mấy nữ nhân viên (kinh) ở ṭa hành chánh tỉnh, tôi đậu xe nhằm “parking” của ông (tại ṭa tỉnh trưởng, v́ thiếu chổ đậu) bị ghi số xe, phù hiệu đơn vị, báo về Đ/tá Can (chỉ huy trưởng C2/LLĐB). Tôi bị kêu lên, ông la cho một trận, thiếu điều kư củ.Con gái thượng, con nhà giàu cũng khá là nết na chững chạc - nết na mà vẫn cho sờ mó? - Thấy trai kinh dường như thích (nhất là sĩ quan trẻ tuổi) nhưng dè dặt, cẫn thận. Thích th́ thích nhưng khó mà rủ đi chơi riêng lẻ. Không biết có phải khó khăn gia đ́nh? Tuy nhiên, đến chơi, ngồi bên nhau, chọc ghẹo, cha mẹ thấy, chẳng nói ǵ. Không biết họ bằng ḷng hay v́ sợ mà không nói?Thú vị nhất là ra ŕnh xem tắm suối. Buổi trưa, không làm ǵ, tôi cùng một vài đứa rủ ra mé suối lén ŕnh đàn bà con gái thượng tắm. Tắm có hai bến tắm: đàn ông tắm riêng và đàn bà con gái tắm riêng, khoảng cách khá xa. Và phái nữ luôn dành phần phía trên ḍng nước chảy. Khi tắm, các ả cứ tự nhiên “thoát y”, lơa lồ thân thể.
Như các nàng tiên. Trửng giởn, liếng thoáng, đùa cợt, té nước, chạy quanh…Cả một đám thân thể trần truồng. mặc sức mà ŕnh xem cho đă mắt. Bất thần đứng dậy. Thấy có người, mẹ con chí chóe la lối, vụt chạy, quơ đồ đạc khăn áo che vào thân, tỏ ra hốt hoảng. Một lần bị như vậy coi như bến tắm phải bỏ đi. T́m bến khác. Ŕnh xem con gái thượng tắm rất vui, nhưng mà phải kín đáo và cẫn thận. Bị báo cáo, bị thưa là khốn. Kư củ và đổ đi chổ khác như chơi.Người thượng khá chân thật, rất t́nh người. Ít ranh ma, xảo trá. Trừ khi họ được chung sống nh́ều với người kinh. Thời VNCH, dân tộc người thượng được luật pháp bảo vệ, lại có phần được ưu đăi nhiều thứ. Cũng nhằm mục đích lấy ḷng để mua chuột, cai trị?Đến với họ, quen thân với người thượng cần nên giữ ư dè chừng. Tránh lợi dụng, tránh ma mảnh, lừa dối, gạt gẫm, hăm hại, nhất là lănh vực t́nh cảm yêu thương. Người con gái thượng khi yêu rất thật, cho bằng cả ḷng tin. Tuy nhiên, gạt gẫm, dối lừa, chơi qua rồi bỏ. Hậu quả khôn lường (cả vật chất lăn tinh thần). Nghe nói người thượng có biệt tài “thư”. Đối với ai gạt lừa bội phản. Thư một đống đá sỏi, da trâu trong bụng, cho bỏ thói Sở Khanh phản trắc lưu manh. Nghe nói thôi, chưa có dịp thấy.Ché rượu cần Làng Pleikép, cách thị xă Pleiku khoảng 10 km. Một làng được người Mỹ (qua VN giới thiệu yêu cầu) giúp vật liệu xây dựng nhà cửa, mọi thứ tiện nghi cho toàn thể dân làng. Đúng ra, Pleikép chỉ là một ấp.Một bữa, xây cất xong, tổ chức lễ khánh thành, mời “ân nhân” BCH/B17/LLĐB (Mỹ lẫn Việt). Chỉ huy trưởng đi công tác. Đáng lẻ chỉ huy phó đi, thiếu tá Quỳnh (CHP) kêu tôi (là trưởng Ban CTCT) đi thế.Một buổi tiếp đón khá trọng thể, Hai dăy thức ăn bày thẳng tắp chạy dài. Phía trên là bàn dành cho khách quí (VIP). Thức ăn là thịt dê thui nham nhở, c̣n sống, máu tuơm . Hai ché rượu cần hai bên. Hai chiếc ghế dành cho thượng khách (trung tá cố vấn Mỹ và tôi). Hai dăy người dân hai bên đông đúc. Mọi người vổ tay hoan hô mừng đón, chờ đợi khai mạc. Tr/tá Mỹ chào. Tôi chào. Hai tên đứng hai bên khá trịnh trọng, mỗi người dùng chiếc khăn trắng nắm cần câu (cần uống ruợu), lau, ngậm miệng nút cho ruợu ra. Xong, lau lại và hai tay cung kính đưa sang cố vấn Mỹ và tôi, mỗi người ngồi nút một cần. Phải uống cạn một “can” (theo nghi thức). Cái miệng ché rộng cở gang tay đầy nước tới miệng ché. Một thanh gác ngang, ở giữa là một que dính liền dài khoảng 2,5cm nằm trong nước hướng mủi xuống dưới. Nút (uống) ruợu (từ dưới đáy), nước trên miệng dực xuống, dực đến khi đầu que lên phía trên mặt nước, là một “can”. Dung lượng rượu có thể gần cả lít. Hai hàng người dân phía dưới đứng chờ. Thỉnh thoảng vổ tay tán thưởng. Tôi nâng chiếc cần nút. Từng giọt rượu nồng tuông chảy vào miệng, ng̣n ngọt, thơm thơm, cũng dể uống. Tuy nhiên, càng uống, cơ thể nóng bừng. Chất rượu lan khắp cơ thể. Bên kia tên Mỹ cũng cố mà nút. Anh ta ngưng và tôi bên này, chiếc que cũng đă lộ ra trên mặt nước. Cơ thể đă nóng và đầu óc hơi choáng váng. Một tràng pháo tay vang dậy. Và hai tên “hầu cận” lại đổ thêm nước vào, lên đầy miệng ché. Kính mời nhị vị cạn thêm “can” nữa. Trời đất! Như vậy là nghi thức phải uống hai “can”. Bụng tôi đă sắp no ph́nh. Tứ chi gần bủng rủng. Tên Tr/tá cố vấn Mỹ nút, và tôi cũng nút. “Bá quan văn vơ” đứng dưới tiếp tục chờ. Cạn thêm ½ can, tôi gần muốn ngă. Đầu óc nóng bừng. Tên Mỹ vừa xong. C̣n tôi. Chết bỏ cũng phải ráng cho cạn, dầu rằng uống không muốn nổi nữa. V́ thể diện, v́ danh dự, tôi cố nút. Và sau cùng cũng cạn. Vổ tay vang dậy, mọi người xúm vào uống và ăn. Tôi được chuyền đưa cái nĩa với miếng thịt dê tươm máu. Đón nhận và cắn một cái, tôi lợm giọng, muốn ói. Phải ráng mà dằn. Để miếng thịt xuống, tôi ra dấu “người bạn đồng hành” (cố vấn Mỹ) xin kiếu. Tên Mỹ đứng dậy chào giă từ. Tôi cũng chào và từ giă bước ra. Lạng quạng, muốn ngă. Tên tài xế d́u tôi ra xe. Vừa lên xe, chạy ra chưa khỏi cổng là tôi ói. Ói tơi tả, ói dài dài về tới cổng trại. Đầu óc như muốn bể tung, nhức buốc. Ai đưa về pḥng tôi cũng không nhớ. Miên mang, dă dượi, suốt một đêm và gần cả một ngày. Chiều đến, tạm tỉnh, Thiếu Tá Quỳnh Chỉ huy Phó đến thăm. Động viên khen ngợi:
- Cậu đở chưa? Kể ra cũng không phải mất mặt. Ói trên xe, ói dọc đường không ai biết. Tham dự buổi lễ thành công. Cám ơn cậu. Một lần, cho biết. Tởn tới già. Sau này nghe nói đến rượu cần, tôi phát sợ.Thật sự, rượu cần ngon. Có lẻ rượu đăi khách quí, người thượng họ làm chất liệu ngon, tốt. Lại nước rượu đầu tiên, nguyên chất. Uống ng̣n ngọt, thơm thơm, nồng nàng hương vị. Cũng là thứ rượu ngon. Ngon không thua ǵ rượu đậu nành, rượu nếp than, rượu đế. Cũng là “quốc tửu”. Hân hạnh lắm thay!...Cuộc đời binh ngiệp, trăi bao năm, tôi đă đi, đến khá nhiều nơi, nhiều chổ: đồng bằng, biển cả, núi rừng… qua bao nhiêu miền đất nước, quê hương. Pleiku vẫn là nơi đáng nhớ.Vùng cao nguyên đất đỏ: nắng bụi mưa bùn. Nghe qua, ai cũng ngại, cũng sợ, không muốn đến. Nhưng đă đến rồi, vẫn thấy luyến, thấy thương – Thương đất nước, thương t́nh người, thương cảnh vật. Trước đây, thời giặc giă chiến tranh là vậy. Bây giờ không biết sao?
Viết về Pleiku, viết để nhớ về kỷ niệm. Và những ai, đă một lần đến Pleiku, xin cùng nhau chia xẻ chút nỗi niềm.
Tháng Tư/11
Ng. Dân
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Cà phê Hoàng Lan, tiếc quá hồi đó không có dịp dừng chân . 1972 th́ đang ở Phụng Dực uống cà phê Ban Mê , cám ơn huynh đă cho một thời để nhớ , để yêu em Pleiku .
:handshake :
The Following 3 Users Say Thank You to anhhaila For This Useful Post:
Cà phê Hoàng Lan, tiếc quá hồi đó không có dịp dừng chân . 1972 th́ đang ở Phụng Dực uống cà phê Ban Mê , cám ơn huynh đă cho một thời để nhớ , để yêu em Pleiku .
:handshake :
The Following 4 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
Cà phê Hoàng Lan, tiếc quá hồi đó không có dịp dừng chân . 1972 th́ đang ở Phụng Dực uống cà phê Ban Mê , cám ơn huynh đă cho một thời để nhớ , để yêu em Pleiku .
:handshake :
em Pleiku da thịt đẫy đà...muỗi cắn nên ghẻ nhiều, có lần tụi này thỉnh 2 cô ca sĩ về chỗ tụi này , vừa hát vừa làm đào nhẩy, ngồi kế em nh́n thấy những vết đỏ lấm chấm ở 2 bên đùi...2 bàn tay của tui đi tu luôn.
:haf ppy:
The Following 3 Users Say Thank You to trungthu For This Useful Post:
em Pleiku da thịt đẫy đà...muỗi cắn nên ghẻ nhiều, có lần tụi này thỉnh 2 cô ca sĩ về chỗ tụi này , vừa hát vừa làm đào nhẩy, ngồi kế em nh́n thấy những vết đỏ lấm chấm ở 2 bên đùi...2 bàn tay của tui đi tu luôn.
:haf ppy:
:haf ppy:
The Following 3 Users Say Thank You to phokhuya For This Useful Post:
em Pleiku da thịt đẫy đà...muỗi cắn nên ghẻ nhiều, có lần tụi này thỉnh 2 cô ca sĩ về chỗ tụi này , vừa hát vừa làm đào nhẩy, ngồi kế em nh́n thấy những vết đỏ lấm chấm ở 2 bên đùi...2 bàn tay của tui đi tu luôn.
:haf ppy:
Cha nội TT rờ lộn rồi ai biểu mắt cha nhắm lại làm chi . Đó là mụn cóc
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Hứa Thiện Hùng, chiến sĩ Quân Lực VNCH - Hai sắc lính một màu cờ
ANAHEIM, California (NV) – Đầu năm 1965 là cột mốc khó quên trong đời khi chàng trai trẻ Hứa Thiện Hùng lần đầu tiên t́nh nguyện vào Quân Chủng Không Quân, Khóa 65D, được qua Mỹ học giai đoạn đầu nhưng sau đó v́ lư do sức khỏe, phải trở về Việt Nam.
Phi công Hứa Thiện Hùng (trái) trong lễ măn khóa “Gắn Cánh” tốt nghiệp tại Trường Phi Hành Keesler AFB, Biloxi, Mississippi, bên cạnh là bạn cùng khóa và thầy huấn luyện John Hackerman cùng phu nhân. (H́nh: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Nhưng nhiệt huyết vẫn luôn sôi sục trong ḷng khi chứng kiến bao cảnh đau thương của chiến tranh, sau khi về nước ông được đưa qua Khóa 26 Bộ Binh Thủ Đức, măn khóa ông t́nh nguyện về Lực Lượng Đặc Biệt.
Được nhập ngũ trong thời chinh chiến, phục vụ dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ là một biểu tượng của t́nh yêu tổ quốc, đó cũng là danh dự và trách nhiệm của công dân. Và người trai thời loạn Hứa Thiện Hùng, đă vinh dự đứng dưới lá cờ vàng, qua hai sắc lính với hai quân chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Lần đầu gia nhập Quân Chủng Không Quân Quân Lực VNCH
Tiếp phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Anaheim, miền Nam California, ông Hứa Thiện Hùng kể, để bước vào Quân Chủng Không Quân, đầu tiên sau khi thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang khoảng 11 tháng, ông Hùng được qua Mỹ học tiếng Anh tại trường Lackland Air Force Base, Texas. Rất tiếc trước khi tiếp tục qua trường học bay, lúc đó sức khỏe không cho phép tiếp tục khóa huấn luyện phi công, ông Hùng đành phải bỏ dở nửa chừng chương tŕnh học.
Trở về nước, ông Hùng gia nhập Khóa 26 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sau khi ra truờng, ông t́nh nguyện vào Lực Lượng Đặc Biệt, đặt hậu cứ ở Nha Trang, thuộc Trung Tâm Hành Quân Delta.
Lúc đó đang trong trận Mậu Thân 1968, ông Hùng đang hành quân ở vùng Cây Quéo, Cây Thị (tỉnh Gia Định), tảo thanh Việt Cộng tấn công vào nội thành Sài G̣n-Gia Định. Lúc đó lực lượng Delta đang truy lùng t́m Việt Cộng lẩn trốn và ông Hùng là phụ tá toán trưởng Delta. Sau trận đó ông được rút về Nha Trang, tiếp tục là trưởng toán nhảy vào mật khu Đồng Ḅ Nha Trang. Rồi ông tiếp tục nhảy vào rừng, mỗi tháng nhảy toán một lần, vào vùng Mỏ Than Nông Sơn, Khu Kỹ Nghệ An Ḥa, Đồng Xoài, Lộc Ninh…
“Tôi ở đó hơn một năm, nhảy trong rừng khoảng 17 lần, mỗi lần vô ra khoảng bảy ngày, dắt theo sáu toán viên. Lúc mới về, có cố vấn Mỹ đi cùng sau đó th́ không cần thiết, ḿnh tự đi. Sau khoảng 13 tháng ở đơn vị nhảy toán Delta, bên Không Quân có yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu cho tôi về khám lại sức khỏe, may sao lại qua hết những đợt kiểm tra này,” ông Hùng cho biết.
Trở qua Mỹ, tiếp tục học khóa phi công
“Tôi lại được trở qua Mỹ lần nữa, đưa về Trường Phi Hành Keesler AFB, Biloxi, Mississippi, để được huấn luyện bay T-28 khoảng 12 tháng. Đây là loại máy bay một động cơ cánh quạt để thực tập các bài học lái căn bản. Người học lái ngồi ghế trước, tiếp cận trực tiếp với bảng đồng hồ và tự điều khiển cần lái, c̣n người thầy huấn luyện ngồi ở ghế sau”. ông Hùng kể.
Ông Hùng cho hay, để học lái trên chiếc T-28, một ngày có khoảng 2 đến 3 giờ bay trong hai buổi, sáng đi bay chiều học dưới đất, khoảng 400 đến 500 giờ là xong chương tŕnh. Khó khăn và nguy hiểm nhất trong chương tŕnh học là kỹ thuật “Spin,” bay chúc đầu xuống, lấy lại thăng bằng b́nh thường để xoay cánh bay lên. Ngoài ra những kỹ thuật cất cánh, đáp, nhận diện địa h́nh dưới đất cũng được học và thực hành rất kỹ.
Nhớ về kỷ niệm đẹp nhất trong đời người phi công, ông Hùng vui vẻ kể: “Khi đă thành thục, người thầy huấn luyện sẽ không đi theo nữa, học viên tự bay một ḿnh, tự cất cánh và đáp xuống với sự điều khiển, nhắc nhở của ông thầy dưới đất. Chuyến bay ‘solo’ thành công, khi đáp xuống học viên sẽ được huấn luyện viên nhấc lên bỏ vô thùng nước ướt hết cả người, leo ra đứng chụp h́nh chung với ông thầy. Cả học viên lẫn người thầy huấn luyện đều vui mừng v́ cả hai đều hoàn thành tốt đẹp khóa học bay!”
Ông Hứa Thiện Hùng (phải) với bộ đồ bay ướt sũng, trong thủ tục ăn mừng bay “solo” thành công. Bên cạnh là ông John Hackerman, thầy huấn luyện bay tại Trường Phi Hành Keesler AFB, Biloxi, Mississippi, năm 1971. (H́nh: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
“Ngoài ra, sau khi bay ‘solo’ thành công, sẽ được bay bằng phi cụ, tức là học viên ngồi trong buồng lái bao bọc chung quanh một bao tối đen, chỉ tiếp xúc trực tiếp với những đồng hồ chỉ báo tốc độ, cao độ, hướng bay, và người thầy ngồi phía sau điều khiển nhắc nhở,” ông Hùng kể thêm.
Măn khóa học bay T-28, ông Hùng được chuyển qua học bay C-123 là loại máy bay vận tải hai cánh quạt tại Trường Phi Hành Lockbourne AFB ở Columbus, tiểu bang Ohio, khoảng ba tháng là xong khóa học.
Ông Hùng cho biết thêm trong chiến tranh Việt Nam, loại máy bay C-123K có trang bị thêm hai động cơ phản lực phụ để lên xuống ở những phi đạo ngắn, rất đắc dụng để vận chuyển lính đi hành quân, huấn luyện nhảy dù, thả dù tiếp liệu súng đạn, lương thực, thuốc men y tế, nhu yếu phẩm cho từng đơn vị. Trước năm 1975, Mỹ cho thu hồi loại máy bay C123 để đổi lại chiếc C130, mạnh hơn.
Về nước, lái máy bay vận tải C123 khắp chiến trường
Về Việt Nam, ông c̣n một giai đoạn chót nữa trong chương tŕnh huấn luyện tại phi trường Phan Rang, là phi công phải học lái máy bay trên những phi đạo ngắn, được lót bằng những tấm vỉ sắt như phi trường Kon Tum, hoặc đáp xuống những con lộ ngắn tại những quận lỵ nhỏ, hoặc tiền đồn địa phương hẻo lánh, không có phi trường.
“Như ở tiền đồn Tống Lê Chân hoặc những nơi đang bị vây, máy bay đến thả hàng tiếp liệu súng đạn, lương thực, nhu yếu phẩm, thường là súng đạn cho chiến trường đang rất cần, thả cho thật lẹ rồi bay ngay. Cũng có mấy chiếc C123 bị hỏa tiễn SA7 của Việt Cộng bắn rơi trên chiến trường", ông Hùng kể.
Từ đó phi công Đại Úy Hứa Thiện Hùng phục vụ tại Phi Đoàn 423-425, thuộc Không Đoàn Vận Tải 53, Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất, bay khắp nơi để phục vụ chiến trường lúc bấy giờ đang hồi khốc liệt. Tiếp tục bay đến năm 1975, sau đó đời tù “cải tạo” bắt đầu.
“Đầu tiên tôi bị đưa vào trại Trảng Lớn, Tây Ninh, nơi đó là đồn đóng quân của Địa Phương Quân, gần phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Sau đó tôi bị đưa qua trại Cà Tum, sát biên giới Cam Bốt, trại này thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, thuộc Lôi Hổ biên pḥng ngày xưa,” ông nhớ lại.
“Cuộc đời tù cũng như bao người khác, nhưng được cái may mắn là tôi không ở trong những trại tù hắc ám thành ra có phần nhẹ hơn. Ở trại Cà Tum đến cuối năm 1980 th́ tôi được đưa về Thành Ông Năm, Hóc Môn. Ra tù, tôi phải đi đào thủy lợi như mọi người dọc theo con đài ở Đức Ḥa, Đức Huệ, Hậu Nghĩa,” ông Hùng kể.
Thiếu Úy Hứa Thiện Hùng, thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Nhảy Toán Delta, năm 1969. (H́nh: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Chuyến vượt thoát và những nỗi kinh hoàng trên biển
Cuối năm 1980, ông Hùng được người dắt mối vượt biển với giá 2 cây vàng. Chuyến đi xuất phát từ Rạch Giá, Kiên Giang, sau một ngày đêm lênh đênh trên hải phận quốc tế, lần đầu gặp ngay hải tặc Thái Lan.
Chuyến ghe vượt biển dài khoảng gần 20 thước, chở 120 người phần lớn là phụ nữ và trẻ em, c̣n lại chỉ có 19 tay thanh niên trên 18 tuổi, trong đó có tôi, ông Hùng cho hay.
“Bọn hải tặc thả dây kéo ghe ḿnh cập vô sát ghe nó, kêu hết tất cả đàn bà con nít qua hết trên ghe nó, nấu cơm cho ăn tử tế, xong hăm hiếp phụ nữ, khi bọn cướp trả người về ghe của ḿnh, tất cả phụ nữ đều thất thần hoảng loạn!”, ông Hùng bần thần nhớ lại.
“Sau đó ghe tiếp tục đi, vợ con của chủ ghe hoảng hốt, người chủ ghe cũng mất tinh thần theo. Tôi lúc đó nằm dưới lườn ghe, được chủ ghe yêu cầu tôi tiếp tục điều khiển chiếc ghe để đi tiếp. Chủ ghe cho biết nếu bị cướp biển lần nữa, th́ tôi tùy theo hoàn cảnh mà giải quyết, nếu cần th́ liều chết. Tôi kêu các anh em đi trên ghe, cho biết nay tôi theo sự ủy thác của chủ ghe, nếu gặp cướp biển lần nữa, các anh em phải nghe theo sự chỉ huy của tôi, các anh em trên ghe đều đồng ư”, ông Hùng kể tiếp.
Ông Hùng cho hay, mấy anh em đi vượt biển chuyến này hầu hết đều là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, ít nhiều đều có vơ nghệ để pḥng thân. Hơn nữa vừa xảy ra việc cướp bóc hăm hiếp vừa rồi, nên mọi người đều uất ức!
Bị cướp lần thứ hai, phải giết người trên đất Thái
Ông Hùng kể, ngay ngày hôm sau, lúc đó ông định hướng là gần vô đất Thái, lại gặp cướp lần thứ hai. Lần cướp này xảy ra bài bản hơn lần thứ nhất, khi bọn hải tặc cho tất cả mọi người trên ghe vượt biên qua hết trên tàu lớn của chúng, để bọn chúng lên ghe nhỏ của ḿnh, lục soát lấy những ǵ có thể lấy. Sau đó bọn chúng đập phá nát ghe của ḿnh, mục đích coi c̣n giấu vàng bạc chỗ nào không.
“Sau khi cướp phá xong, bọn hải tặc bắt đầu đuổi người vượt biển trở xuống ghe nhỏ của ḿnh. Tôi nh́n xuống thấy hỡi ơi, chiếc ghe nhỏ ḿnh bị phá tan tành, coi như không thể đi được nữa! Tôi nói với nhóm thanh niên ḿnh, phải chuẩn bị tư thế sẵn sàng, khi nghe tôi ra lệnh, tất cả đều phải lao vào tử chiến”, ông Hùng nhớ chuyện xưa.
“Vừa bị cướp bóc hăm hiếp xong, nỗi uất ức mọi người c̣n dâng tràn, nên sau khi tôi ra lệnh ‘Xung phong,’ cả đám thanh niên say máu ào vô đánh liền. Bọn cướp biển tên nào cũng có cầm dao trên tay, c̣n bọn tôi th́ tay không, nhưng ai nấy cũng đều là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, ít nhiều ǵ cũng ‘có nghề’ nên nhất tề xông vào đánh tới tấp!”, ông kể.
Ông Hứa Thiện Hùng (phải) thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Nhảy Toán Delta, trong chuyến về thăm nhà tại Phan Thiết năm 1969, trước khi nhảy toán. (H́nh: Văn Lan/Người Việt chụp lại)
Ông Hùng buồn rầu kể lại chuyện đă xảy ra hơn 40 năm: “Bọn cướp biển bất ngờ bị tấn công dữ dội, chúng trở tay không kịp. Riêng tôi bị tên đầu đảng cầm mă tấu phóng tới chém liền. Không may cho nó, tôi chụp chiếc cần xé đan bằng tre rất chắc dùng để đựng cá, quăng tới đỡ liền. Khi mă tấu bị chém hụt, rớt xuống trước mặt, tôi chụp ngay mă tấu chém ngược một nhát ngay cổ tên đầu đảng, hắn ngă xuống giăy đành đạch, máu phun có ṿi!”.
“Việc hỗn chiến diễn ra quá nhanh, kết quả bọn hải tặc chết bốn tên tại chỗ, chúng tôi kéo xác quăng xuống biển, ba tên c̣n lại hốt hoảng nhảy xuống biển. Tôi cũng không ngờ anh em thanh niên ra tay sấm sét như vậy! Bên phe ta có anh Danh bị đâm ḷi ruột nặng nhất, và một anh khác bị chém xệ bả vai. Nhờ có anh Bác Sĩ Chi Lăng đi trong nhóm vượt biên, lấy dụng cụ y tế trên ghe băng bó tạm”, ông nói.
“Kế tiếp tôi chỉ huy anh em lấy cây gỗ trên ghe, chặt thành từng đoạn làm vũ khí chống trả nếu có gặp cướp biển lần nữa. Khi đó có có mấy chiếc ghe Thái chạy ṿng quanh nhưng không dám tới gần. Sau đó tôi kêu anh em nổ máy ghe chạy tiếp vô đất liền, nhưng không biết sao máy không nổ, chiếc ghe nằm yên không nhúc nhích!”, ông Hùng kể tiếp.
Thế là mọi người phải nằm chịu trận tại chỗ cho tới hôm sau, khi thấy một chiếc tàu Hải Quân Thái Lan tới gần, bà con lấy áo phất lên làm dấu hiệu cầu cứu, cùng lúc mấy thanh niên quăng hết dao trên ghe xuống biển để tránh phiền phức.
“Thấy chúng tôi, tàu Hải Quân Thái thả xuống chiếc ca nô nhỏ chạy tới. Thế nhưng, chúng dừng lại quan sát hồi lâu rồi bỗng bắn hàng loạt đạn bay tung trên mặt nước tới tấp để thị uy xong mới xáp vô lục soát. Sau khi thấy không có ǵ nguy hiểm, chúng kéo ghe vô đất liền”, ông miêu tả.
(Văn Lan).
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Ngày này năm xưa, 28/08/1917: Tổng thống Wilson bị người biểu t́nh chặn đường
Ngày này năm xưa, 28/08/1917: Tổng thống Wilson bị người biểu t́nh chặn đường
Vào ngày này năm 1917, Tổng thống Woodrow Wilson đă bị chặn đường bởi những người ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ trước Nhà Trắng,
Vào ngày này năm 1917, Tổng thống Woodrow Wilson đă bị chặn đường bởi những người ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ trước Nhà Trắng, những người muốn ông ủng hộ việc sửa đổi Hiến pháp để đảm bảo phụ nữ có quyền bầu cử.
Wilson từng có quá khứ ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ, mặc dù ông thường hứa suông trước những yêu cầu của người ủng hộ trong các chiến dịch chính trị và lịch sự chào hỏi những người biểu t́nh ôn ḥa trước kia tại Nhà Trắng. Ông cũng từng làm giáo viên tại trường nữ sinh và là cha của hai cô con gái tự xem ḿnh là “những người ủng hộ quyền bầu cử của phụ nữ.”
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1912 với đối thủ là Theodore Roosevelt, Wilson và Roosevelt đều đồng ư về nhiều biện pháp cải cách như luật lao động trẻ em và luật ủng hộ công đoàn. Tuy nhiên, họ lại khác nhau trong vấn đề quyền bầu cử của phụ nữ, khi Roosevelt tán thành việc phụ nữ có quyền bỏ phiếu.
Theo kho lưu trữ American Memory của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Wilson đă bước ra từ cổng Nhà Trắng vào sáng ngày 28/08 cùng vợ và ngả mũ về phía những người biểu t́nh như thường lệ. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, nhóm người này ngày càng trở nên kích động khi họ giương các khẩu hiệu phản đối Thế chiến I trên những tấm áp phích – bên cạnh yêu cầu quyền bỏ phiếu.
Cuối ngày hôm đó, những người biểu t́nh và người qua đường ủng hộ chiến tranh đă xung đột với nhau. Nhiều phụ nữ đă bị bắt và bị tống giam. Một số người ủng hộ quyền bầu cử b́nh đẳng đă tuyệt thực trong tù và bị ép ăn bởi những người giam giữ họ. E sợ vấn đề tuyệt thực và lo rằng chính quyền của ḿnh sẽ chịu dư luận tiêu cực, Wilson cuối cùng đă đồng ư thông qua một tu chính án trao quyền bầu cử cho phụ nữ vào tháng 01/1918. Một năm sau, Quốc hội thông qua Tu chính án thứ 19. Tháng 08/1920, tu chính án này được phê chuẩn, trao quyền bầu cử cho phụ nữ.
Biên dịch: Trần Mẫn Linh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Chiếc khu trục hạm DER 331, USS KOINER, sau 3 tuần lễ đi tuần ở ngoài khơi Biển Đông, đă tới hải cảng Cao Hùng, tiếng Anh viết là Kaoshiung, một thành phố duyên hải, cũng là thủ phủ của miền Nam Đài Loan.
Cùng đi với tôi có một thượng sĩ. Chúng tôi cùng lên chiến hạm nầy tại Thái Lan để làm một cuộc thực tập, OJT (On the Job Training) . Tới hải cảng Cao Hùng vào giữa mùa Xuân nên khí hậu rất thoải mái. V́ là một bến cảng nhỏ Cao Hùng không có cầu tàu với nước đủ sâu để một tàu chiến như là một khu trục hạm có thể vô cầu tàu để cặp bến…Trước 10 giờ sáng địa phương th́ tàu chúng tôi đă thả neo xong xuôi, yên ổn. Tàu chia ra 2 phân đội tả, hữu để cho việc đi bờ.. “Đi bờ” (to go ashore) là một tiếng lóng Hải quân chỉ việc thủy thủ đoàn rời tàu lên đất liền nghỉ ngơi hay công tác linh tinh ǵ đó.
Đi bờ cũng là dịp thủy thủ đoàn có dịp ăn nhậu say sưa…đôi khi có những chàng thủy thủ say khướt, được…quân cảnh chở về tàu, chứ không thể đi đứng tự chủ được. Không thuộc hẳn thủy đoàn hai người chúng tôi được sắp cho đi bờ chuyến đầu tiên. Tàu neo trên một nhánh sông nhỏ, đối diện với thành phố, cách bờ chừng hơn một cây số. Muốn vô tới bờ phải dùng những chiếc ghe nhỏ của dân địa phương, gọi là “taxi boat” . Một chiếc thuyền nhỏ như vậy chỉ có thể chở trên dưới 10 người. Thuyền chèo bằng tay, có lẽ do việc tiết kiệm nhiên liệu với lại khoảng cách từ chỗ tàu neo tới bến không có xa lắm. Người chèo thuyền chúng tôi đi, gọi là skipper, là một đàn ông trung niên, khoảng 40 tuổi. Giá tiền là một hai đô la ǵ đó cho mỗi người. Tôi móc sẵn một tờ giấy 10 đô để trả tiền…thuyền phí. Tư thế một sĩ quan tôi sẽ trả tiền taxi boat cho anh thượng sĩ kia luôn. Nói với người skipper, tôi cũng vừa dơ 2 ngón
tay lên : “ lưỡng cô dành…”.Với 3 chữ tiếng Quảng cầu âu đó, mà không ngờ người lái thuyền hiểu. Mà cũng có thể ông ta đă hiểu với 2 ngón tay của tôi đă ra dấu. Ông ta gật đầu miệng cười khả ái, rồi xua tay, cho biết là chúng tôi khỏi phải trả tiền đi bờ…
Cảm t́nh tốt đẹp của tôi đối với thành phố duyên hải này có lẽ đă bắt đầu bằng nghĩa cử trên.
Không phải như bây giờ. Lúc đó là vào năm 1967, đi dạo sơ trên thành phố mà việc đầu tiên là phải đi t́m cái ǵ cho bữa ăn trưa cái đă. Ngó qua nh́n lại tôi không gặp một người Việt Nam nào hết. Và đó cũng là lư do người dân Đài Loan thời ấy chưa biết cái xứ h́nh chữ S của chúng ta tên ǵ và ở đâu..
Đến xứ người Tàu mà không ăn ḿ th́ ăn cái ǵ? Với cái ư nghĩ đó hai chúng tôi vô môt quán ăn nhỏ, và kêu mỗi người một tô ḿ ….Không dở mà cũng chẳng ngon. Ḿ của người Tàu Đài Loan coi bộ không ngon hơn là ḿ của cái xe nhỏ ở đường Nguyễn văn Sâm Sàig̣n…hay là “ḿ cây nhăn” ở đường Phan thanh Giản, Đakao sát bên trường Vương Gia Cần hồi xưa của tôi. Nghĩ lại cũng tự trách là đă hơi khó tính. Người Tàu Quảng Đông là những tay đầu bếp cừ khôi của Trung Hoa…Nhớ xưa kia vua Càn Long nhà Thanh làm cuộc …”thăm dân cho biết sự t́nh” với giai thoại Càn Long du Giang Nam,mà thực sự ra mục đích chánh yếu của ông vua này là chỉ đi về phía Nam của sông Dương Tử để thưởng thức những món ăn tuyệt hảo của người Tàu miền Nam ở xứ Quảng Đông rộng lớn…
Rời quán ăn hai chúng tôi tiếp tục đi lang thang, cố khai phá thành phố trù phú miền duyên hài này, như hai kẻ mù sờ voi. Chẳng có một chỉ dẫn, không có một thổ công để có thể dẫn dắt chúng tôi thăm viếng những thắng cảnh đặc biệt của Cao Hùng. Đi ngang một tiệm hớt tóc, có cái bảng đề chữ Anh hẳn hoi “ Hair Cut, Barber Shop..” tôi mới thử rờ đầu th́ biết tóc đă hơi dài.
Thôi th́ sẵn đây ḿnh đi vô hớt tóc để xem cái không khí nơi đây ra sao. Có cái ǵ giống, có cái chi khác với ở quê nhà hay không. Tiệm hớt tóc vui vẻ đón hai khách hàng hơi đặc biệt. Cô tiếp viên nói một tràng tiếng Đài Loan.Chúng tôi nào hiểu ǵ. Chừng vài giây đồng hồ sau th́ cô tiếp viên mới nhận ra chúng tôi không phải là dân bản xứ. Thế là cô ta ọ ẹ xổ ra vài câu tiếng Anh, đại khác hỏi rằng quí vị muốn hớt tóc hay không? Hai đứa chúng tôi gật đầu và lên ngồi ghế…Bây giờ tôi mới sực nh́n kỹ ra là trong cái tiệm này không có bóng một người thợ đàn ông nào hết. Thú vị quá đi chứ. Vào thời điểm này ở Việt Nam chưa có thợ hớt tóc là đàn bà nào cả….
Ra khỏi tiệm hớt tóc th́ trời đang ngă về chiều. Chúng tôi gặp vài quân nhân cùng chiến hạm. Họ cũng lạc lỏng như hai đứa tôi. Cùng nhau đi với họ chừng một đoạn đường th́ có một tiếng nói oang oang…Tụi ḿnh đi PX mua đồ nha các bạn. Cả bọn ai cũng đồng ư. Cũng may là trong đoàn có một hạ sĩ quan đă từng tới hải cảng này, biết cái PX ở chỗ nào. Thế là 2 người trên một chiếc xe lôi, do một người đạp phía trước. Những anh thủy thủ t́m lại được hơi hám của nước Mỹ với không khí vui nhôn của cửa hàng bách hóa quân tiếp vụ này. Mỗi người tùy theo món hàng muốn nh́n muốn mua mà đi vào một khu khác.
Tôi cũng chẳng biết ḿnh sẽ mua cái ǵ..Chợt nghĩ ra rằng hộp quẹt Zippo là những món quà lư tưởng khi trở về, nó vừa nhỏ vừa gọn…Tôi chưa kịp đi tới quầy hàng bán quẹt máy th́ chợt có một tiếng nói vọng ra từ phía sau lưng…
- Chung úy !
Quay người lại th́ trước mặt tôi là một thanh niên người Việt gốc Hoa
- Sao em biết tôi là người Việt ?
- Dạ, em thấy cái bảng thêu trên cánh vai áo hai chữ VIETNAM mà.
- Sao em lại ở đây?
- Em…chốn lính. Em sanh ở Chợ Lớn…Có người d́ ở đây. Tới tuổi đi
lính ba má em cho qua đây…
Tôi nở một nụ cười thông cảm. Anh ấy nói tiếp:
- Em chỉ có bà con ở Đài Loan nầy thôi, từ mấy đời. Chớ Chung Hoa Lục Địa em đâu có ai bên đó. Chợ lớn là nơi chôn nhau cắt dún của em mà…
Thế rồi anh thanh niên hỏi tôi vô PX t́m mua cái ǵ…Sau khi mua được quẹt máy Zippo, chàng thanh niên mới chỉ cho tôi mua một bộ đồ tiểu lễ Hải quân gồm một quần dài với một sơ mi ngắn. Tôi cũng t́m mua thêm một cái áo mưa đă thích từ lâu. Quân đội Hoa Kỳ mặc áo mưa để phân biệt quân chủng. Màu kaki của lục quân, màu xanh da trời đậm của Không quân, và màu đen cho Hải quân. Khi được tôi hỏi – v́ hiếu kỳ - một sĩ quan trên tàu tại sao màu áo mưa của Không quân là màu xanh, mà của Hải quân là màu đen…th́ được trả lời. Bầu trời lúc nào cũng xanh chớ màu nước biển khi trời tối v́ mây che th́ nước biển không phải màu đen, th́ màu ǵ? Nói xong viên sĩ quan cũng cười…tao nói cho mày biết như tao đoán, chớ có thể là một lư do khác…
Tôi rời PX sau đó trước buổi chiều về trên bến Cao Hùng với một vài ngọn gió mát từ biển thổi vào thành phố. Anh thượng sĩ cũng mua vài thứ lặt vặt đă tính sẵn từ lúc lên tàu. Với hai túi xách hàng hóa mua xong, mà người bạn đồng hành cũng mua những thứ như tôi, th́ hai đứa không c̣n ḷng dạ nào tiếp tục đi dạo thành phố nữa. Chúng tôi lên xe về tàu, để cất đồ vừa mua, và cũng để dùng bữa ăn tối trên tàu luôn.
Chuyện gặp gỡ thanh niên ngựi Việt gốc Hoa đă làm tôi cảm xúc. Sanh đẻ ở Việt Nam người thanh niên ấy đương nhiên đă trở thành người Việt. Rơ ràng là anh ta đă xem tôi là đồng bào v́ cũng sinh ra ở một đất nước nhỏ bé cơi Đông Nam Á nầy. Cha mẹ người thanh niên c̣n ở Chợlớn, với mấy đứa em nhỏ. Do đó mà sự liên hệ mật thiết với xứ Việt Nam không dễ nào một ngày một buổi mà mất mát hao ṃn đi được…
Đứng trên boong tàu nh́n về phía thành phố ban đêm mới nhận ra một vẻ đẹp thầm kín của tỉnh duyên hải Cao Hùng. Cái thị trấn gần 3000 cây số vuông này đâu có ngờ là một thương cảng quan trọng nhất, và cũng là một trung tâm kỹ nghệ chính yếu của Đài Loan.Với một dân số chưa tới 3 triệu,người dân Cao Hùng sống thong thả, không có dồn dập xô bồ như thủ đô Sàig̣n chúng ta. Tiếp tục đọc thêm mớ tài liệu du lịch mà chiến hạm mới có th́ tôi mới nhận ra là ḿnh phải ở nơi này thêm một tuần lễ nửa mới mong đi thăm hết những danh lam thắng cảnh sở tại.
Đang miên man suy nghĩ về cái thành phố kỳ thú ở ngoại quốc mà tôi gặp lần đầu với tư cách là thủy thủ th́ viên sĩ quan trực nhật tới nói chuyện với tôi:
- Good evening Mr. Nguyen
- Good evening OOD…( Officer of the Day, sĩ quan trực nhật)
Rồi hai chúng tôi chuyện văn với nhau. Nào là anh ấy hỏi tôi ở trên tàu này có thích hay không.. Đă đi bờ thăm viếng những ǵ hấp dẫn hay chưa… Tôi có vẻ buồn mà nói ra chuyện quan trọng xa xôi. Sao tôi thấy cái xứ Đài Loan tuy nhỏ bé nhưng yên b́nh và hạnh phúc quá..Trong khi xứ Việt Nam của tôi lại ở trong t́nh trạng chiến tranh, thấy chán thật…Viên sĩ quan khuyên tôi :
- Đây không phải là chuyện của anh, mà cũng không phải là chuyện của tôi.Vả lại mỗi quốc gia có một định mệnh, có lúc lên lúc xuống như sự thăng trầm của một đời người vậy…
Sau vài câu trao đổi nữa th́ viên OOD chào từ giă, chúc tôi ngủ ngon…để anh ta đi một ṿng kiểm soát an ninh chiến hạm.
Tôi trở xuống pḥng để ngủ một đêm đầu tiên của chiến hạm neo ở bến.Nơi ngủ của hai chúng tôi là pḥng ngủ của các thượng sĩ. Trong Hải quân Hoa Kỳ cấp bậc thượng sĩ được trọng vọng nhất. Thượng sĩ là một hạ sĩ quan cao nhất, không phải chỉ v́ cấp bậc mà cũng bởi v́ chuyên nghiệp có kinh nghiệm nhất. Như ở trên đài chỉ huy, trong phiên hải hành, nói b́nh thường là đi ca (quart), th́ đôi khi một thiếu úy mới ra trường, có khi chỉ là sĩ quan trừ bị…th́ việc làm point, tức là xác định vị trí chiến hạm chưa chắc bằng một thượng sĩ giám lộ…Các ngành nghề khác cũng y như thế. Pḥng ngủ của các thượng sĩ cũng có đủ tiện nghi không thua ǵ của sĩ quan.
Tôi đang muốn lên giường nằm ngủ th́ ngang mặt thấy mấy thượng sĩ đang đánh bài giải trí. Rummy là một loại bài của Mỹ chơi giống như là chơi mạc chược của người Tàu….
Anh thượng sĩ Quản nội trưởng, Master at Arms (tương đương với Hạ sĩ
quan Thường vụ của bên lục quân) nói với tôi.
- Mày biết oánh bài này không. Tới chơi với tụi tao cho vui…
- Ờ, tao tới.
Cũng chưa buồn ngủ lắm, tôi trở dây tới ngồi bàn đánh bài Rummy với mấy thượng sĩ.Chơi một hồi th́ mấy anh kia về ngủ hết, chỉ c̣n ḿnh tôi với viên Quản Nội Trưởng. Hai chúng tôi chơi thêm năm sáu bàn nữa mới từ biệt nhau đi về giường. Quản Nội Trưởng nói :
- Mày chơi giỏi quá, Ngày mai chơi với tao nữa nha.
Tôi ầm ừ cho xong rồi quay ra…mơ màng giấc điệp.
*
* *
Sáng hôm sau, ăn sáng xong là tới giờ đi bờ. Tôi phải gói cái quần dài trắng tiểu lễ đi ra phố t́m nơi lên lai quần. Anh thượng sĩ đi cùng không khác ǵ tôi cả. Cũng gói ghém cái quần dài tiểu lễ đi ra phố t́m nơi sửa cái quần chắc chắn là dài hơn cặp chân của người Á Đông nhỏ bé chúng ḿnh.
Muốn ra tới trung tâm thành phố th́ từ nơi bến cảng này hai đứa tôi rỉ rả lội bộ vừa đi vừa dáo dác ngó lên nh́n xuống để may ra gặp một tiệm thợ may nhờ sửa quần. Nơi khu phố xuất phát gồm nhiều con đường nhỏ hẹp, bề ngang không đủ cho hai chiếc ô tô chạy ngược chiều né tránh thong thả.Tuyệt nhiên không có một c̣i ô tô nào bóp inh ỏi vô tội vạ, vừa gấp rút vừa
hoảng hốt như thành phố Ḥn Ngọc Viễn Đông, ḥng làm phiền khách bộ hành. Người lái xe ở đây tôn trọng luật đi đường một cách tích cực, và nhất là tôn trọng sinh mạng của khách qua đường…Thế rồi không biết cơ may nào đưa đến, trên một con phố nhỏ chúng tôi đi ngang qua một loạt các tiệm may tiểu công nghệ hiện ra…Mỗi nhà có một công thợ ngồi may với bàn máy may xoay mặt ra đường. Có nhà rộng răi khang trang, có nhà chật hẹp. Trước mặt mỗi cái “tiệm may” như thế không có một bảng hiệu ǵ cả.Người đi đường ngó vô là nhận biết đó là một tiệm may. Như vậy cũng đủ.Thế nhưng ở một vài tiệm khang trang hơn, cũng có một biển chữ Anh,cốt để thu hút khách hàng người ngoại quốc : “Taylor, Alteration shop” (Tiệm may. Sửa chữa áo quần). Người bạn đồng hành của tôi mừng lắm. Khi hai đứa tôi vừa trao đổi sự vui mừng đă t́m ra địa điểm lư tưởng th́ anh ta nhào vô liền một tiệm may lớn…
Không biết sao tôi chưa muốn vô cùng một tiệm như người bạn đồng hành, mà tiếp tục đi thêm một đoạn đường kiểu như…”phố hàng may” nầy. Khi tới gần cuối phố th́ cũng không c̣n những tiệm may nữa. Tôi cũng phải dừng lại, thong thả đi vô một tiệm trung b́nh, không nhỏ không lớn với một người thợ đang chăm chú vào công việc…
Ông thợ may ngước lên chào tôi là một người đàn ông trung niên. Nét mặt thon, xương xẩu với nét phong trần..Mới nh́n tôi ông ta biết ngay đối tượng chẳng phải là người bản địa…Ông ta thốt ra một tràng tiếng Anh :
- Anh người Nhật Bản ?
- Không phải. Việt Nam…
Thấy ông ta ngơ ngác, tỏ ư không biết Việt Nam là cái xứ nào, ở đâu trên quả đất nầy. Tôi thoáng thấy một bản đồ thế giới đă cũ rách, dán trên tường, mới tới đó chỉ nơi một quốc gia h́nh chữ S miền ở Nam Trung Hoa…Bấy giờ ông ta mới hiểu…
Ông thợ cẩn thận lấy ra cây thước dây đo hai ống quần tôi đang mặc…Thế là không đầy hai mươi phút cái quần tiểu lễ đă được cắt sửa…Tính dợm hỏi phải trả công bao nhiêu th́ từ phía trong nhà một thiếu nữ đi ra. Như chừng đă nghe hai chúng tôi trao đổi năy giờ…Cô gái ghé tai ông bố - mà tôi đoán như thế - để nói một câu ǵ đó. Ông già gật đầu lia lịa, quay lại giải thích :
- Đây là con gái út của tôi đó. Nó không cho tôi lấy tiền công của anh…
- ???
- V́ hai lư do. Thứ nhất bở́ anh là một người khách Á Đông khả ái chúng tôi gặp lần đầu. Sau nữa…sau nữa, anh là…Hải quân. Đứa con trai lớn của tôi cũng là Hải quân, mà con em út nó thương anh Hai dữ lắm. Thấy anh th́ nó nhớ tới anh Hai nó đang công tác trên eo biển Đài Loan…
Tôi không biết làm ǵ hơn là tỏ lời cám ơn rối rít, không quên đưa mắt nh́n cô gái tí xíu kia với vẻ mặt biết ơn.
Vừa bước ra khỏi tiệm may với cái quần đă lên lai th́ thấy người bạn thượng sĩ của tôi đằng sau đi tới. Tôi hỏi :
- Cũng xong rồi à. Mà anh phải trả bao nhiêu ?
- Có 2 đô la mà thôi. Mà h́nh như họ lấy giá hời cho tôi đấy. Thế c̣n Trung úy đă phải chi bao nhiêu…?
- Chả tốn xu nào cả. Ông chủ tiệm có thằng con trai cũng là Hải quân,nên kể ḿnh như con cái bà con…Tôi nói thêm…H́nh như số của tôi là ít khi nào phải lo lắng cho cái ăn cái mặc. Một người bạn cùng khóa biết khoa tử vi bói toán xem tướng ǵ đó, đă nói với tôi rằng…Nam ơi,số mầy phong lưu lắm. Tôi thắc mắc. Trời đất tao có bao giờ giàu có hơn ai đâu, mà bảo rằng được số phong lưu…Người bạn mới giải thích. Tao nói số mầy phong lưu chứ có bảo rằng có số giàu sang đâu.Rồi hắn ta cắt nghĩa, là cả đời mày chả bao giờ phải lo miếng cơm
manh áo hết. Khi mày đói có người nuôi ăn; lúc mày lạnh có người cho quần áo ấm.Thế không phải… phong lưu, th́ là ǵ?
Nói chuyện kháo với nhau mấy phút chợt tôi mới nghĩ…Cái con đường “hàng may” nầy chỉ là một phố nhỏ ven đô. Tôi bảo người bạn đồng hành:
- Từ đây ra tới trung tâm thành phố thực sự chắc cũng c̣n xa.
Thế rồi hai đứa kêu một chiếc xe lôi. Người đạp xe lôi hỏi …Tôi ḍm tấm bảng chỉ đường có hai chữ Down Town để chỉ hướng phải đi theo mũi tên. Người đạp xe lôi dư kinh nghiệm để biết rằng du khách ở miệt ven đô này chỉ muốn tới trung tâm thành phố…là đúng ngay chóc.
Khi xe kéo chúng tôi tới một đại lộ thứ nhất, mà bên lề có cái biểng chỉ đáo hạn phạm vi trung tâm thành phố, th́ người xe lôi cũng ngừng đạp.Không cần trao đổi ǵ nhiều với nhau bằng hai ngôn ngữ mà người đối thoại với nhau không ai hiểu ai cả, người xe lôi đă lanh lẹn đưa hai tay ra dấu số tiền phải trả…Tôi móc tiền ra đưa ông ta, nói theo một tiếng Quảng..” Tố chè, Hùm cói a..” Ông lái xe cũng gật đầu nhận hiểu. Tiếng Quan thoại là ngôn ngữ chính thức của Đài Loan, thế nhưng cũng không cấm một số người am hiểu vài câu vài tiếng Quảng Đông…Với lại tiếng “cám ơn” là một tiếng phổ biến, ai cũng phải biết. Nếu khách hàng nói
“Thank You” hay “Arigato”, “Merci” ǵ th́ ông ta cũng hiểu hết.
Tới đây tầm mắt chúng tôi đă bị hạn chế bởi những cao ốc chật đầy thành phố. Lâu lâu có một nhà chọc trời kiêu hănh vượt lên trên những cao ốc thấp bé và khiêm tốn kia. Ở xa hai đứa tôi thấy một nhà chọc trời đặc biệt cao hẳn hơn mấy chục cái khác. Tôi mở tài liệu du lịch ra mới biết tên của cái tháp cao ngất này : “Suntex Sky Tower” có bề cao đứng hạng thứ nh́ của Đài Loan, mà cái nhà chọc trời hạng nhất kia th́ ở tận thủ đô Đài Bắc. Đấy cũng là một hănh diện của Cao Hùng…Coi tiếp vài trang sau mới biết c̣n nhiều nơi đáng ghé thăm…Này bạn ơi, tôi nói với người đồng hành, tài liệu thắng cảnh ở đây c̣n có Hồ hoa Sen mà ở đó có 2 ngôi chùa, Long Tự với Hổ Tự. Ngay trung tâm thành phố có giáo đường Thiên chúa, nhà thờ Thánh Rosaire của Cao Hùng được xây từ năm 1860. Một nơi khác đáng thăm viếng, là Pḥng Lănh Sự cũ của Anh quốc. Nhưng theo tôi nghĩ có một nơi đáng thăm và dễ dàng đi tới đó nhất là con sông chính chảy qua thành phố. Cái hấp dẫn nhất phải là tên con sông…” Love River”, Sông T́nh Yêu. Đẹp và lăng mạn quá đi thôi. Ḿnh đi một chút xíu nữa là đến bờ sông… đó nha.
Nhưng trở về thật tế nhất là hai chúng tôi phải đi t́m ăn cái ǵ dằn bụng…
Bước vô một tiệm cỡ trung b́nh ở đây, cũng là một nhà hàng lớn hơn gấp bội một quán ăn khiêm tốn ở vùng ven đô. Với kinh nghiệm là đầu bếp Tàu ở Cao Hùng nấu ḿ không ngon bằng ḿ Lacaze Chợlớn hay những tiệm ḿ ngon nổi tiếng ở Sàig̣n…chúng tôi đ̣i xem Menu để chọn vài món ăn khác hơn là ḿ nước…Rồi cũng lẩn quẩn mấy món của người Tàu gặp bất cứ ở tiệm ăn Tàu nào, chúng tôi kêu vài thứ linh tinh như xa xíu, há cẩu, rồi kết thúc bằng một dĩa ḿ xào ḍn thập cẩm. Th́ cũng tạm được thôi. Anh bạn đồng hành th́ nhất quyết Đài Loan, hay Cao Hùng đúng hơn không phải là…Chợlớn của chúng ta.
Trước khi rời tiệm ăn chúng tôi cũng cẩn thận hỏi hướng đi về mé sông…
Hai người có máu song hồ chúng tôi đă măn nguyện, Trước mặt là con sông chánh chảy ngang qua thành phố. Một vài h́nh ảnh, với những chiếc thuyền bé nhỏ bên cạnh những con tàu chở hành khách hay thương thuyền làm cho ư nghĩ trong đầu của tôi cứ lẫn lộn….y như là khi th́ ḿnh đứng ở bến Bạch Đằng Sàig̣n, lúc th́ đang dạo mát buổi chiều ở trên bến Ninh Kiều Cần Thơ để ngắm những chiếc thuyền bé nhỏ trên sông Hậu Giang trước ngỏ vô con kinh Xà No…
Con “ Sông T́nh Yêu” của thành phố Cao Hùng vừa nhỏ hơn con sông Sàig̣n nếu đứng nh́n từ bến Bạch Đằng, lại chắc chắn lớn hơn khúc sông Hậu Giang với tầm mắt của một khách dạo chơi trên bến Ninh Kiều. Nh́n kỹ ra trước mặt hai chúng tôi là một con sông của một thành phố khuếch trương kỹ nghệ. Tàu bè kích thước lớn và nhiều hơn ở sông Sàig̣n. Những chiếc tàu hay thuyền nhỏ xem ra cũng tươm tất hơn…Nhất là hai bên bờ được sửa sang vén khéo đẹp đẽ ngay ngắn dễ nh́n…
Bất giác tôi cảm thấy nhớ những ḍng sông con nước ở quê nhà ḿnh quá. Thân phận của người đi xa đứng trước một con sông làm tôi nhớ ngay ra mấy câu thơ lục bát của ông thầy từ lớp trung học đầu tiên ở tư thục Đông Tây Học Đường (1954/1956):
Sông trôi mấy chiếc thuyền qua,
Đời trôi lữ thứ đường xa không cầu.
Quê hương khói xám, trời sâu
Chiến chinh trắng mộng mái đầu gió sương.
T.V.
Sáng hôm sau Hạm phó kêu chúng tôi đến văn pḥng.. Ông nói rằng ngày mai chiến hạm phải trở lại Hoa Kỳ. Chúng tôi được giấy tới văn pḥng điều hợp không vận của Hải quân (Navy ATCO, Air Transport Coordination Office) chờ máy bay đi về Đài Bắc…Chừng hơn tiếng đồng hồ sau một chiếc C47 của US Navy chở chúng tôi đi về hướng Bắc đề tới thủ đô của Đài Loan.Từ đây hai ngày hôm sau chúng tôi đáp máy bay trở về Việt Nam.
Năm sau, 1968 khi tôi đang ở trên chiếc tàu há mồm, Dương vận Hạm THỊ NẠi, HQ 502 tại đảo Guam th́ sĩ quan trục nhật mới cho tôi biết….Có một Hải quân Thiếu tá Mỹ, vốn là Hạm phó của chiếc khu trục hạm DER 331 mời tôi đến nhà dùng bữa ăn trưa…
Viên sĩ quan cũng nói với tôi…anh Nam nh́n ra phía biển kia, Chiếc USS KOINER, DER331 của anh đi năm ngoái đó đang nằm thả neo…chờ ngày phế thải. Tôi bùi ngùi nh́n lại chiến hạm ḿnh đă đi trên đó gần một tháng, mà cũng cám ơn t́nh cảm của viên Hạm phó, quyết t́m ra cho được tôi để mời về nhà ăn trưa…Nhưng tôi cảm xúc nhất là h́nh ảnh của bến cảng Cao Hùng đă cho tôi những kỷ niệm thân quí của một chuyến thực tập trên một chiến hạm của Đệ thất Hạm đội….
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Chuyện con đồi Tăng Nhơn Phú, chuyện những thằng trẻ măng vắt c̣n ra sữa mang súng chạy, ba lô nón sắt tập di hành dă trại trong cái không gian KBC 4100 bỗng nhiên hiện về trong tôi một buổi sáng sang thu hiu hiu lạnh
Chuyện con đồi Tăng Nhơn Phú, chuyện những thằng trẻ măng vắt c̣n ra sữa mang súng chạy, ba lô nón sắt tập di hành dă trại trong cái không gian KBC 4100 bỗng nhiên hiện về trong tôi một buổi sáng sang thu hiu hiu lạnh. Tôi rót một ly trà đậm, ra ngồi dưới tàn lá sau vườn suy nghĩ về những ǵ có liên quan đến một giai đoạn lịch sử trong đời ḿnh. Mài đũng quần ở ghế Trung học rồi ỡm ờ mấy năm đại học cũng để cuối cùng, những thằng như tôi đều chui vào nơi đào tạo những tay súng nối nghiệp cha anh ǵn giữ non sông!
Thật ra th́ tôi chưa được gọi động viên v́ đang học Đại học. Nhưng chính tôi cũng không biết tại sao tôi quyết định một cách hấp tấp chỉ trong một thời gian trên đường từ Đại Học Văn Khoa đến cánh cổng Bộ Quốc Pḥng. Chẳng là tôi có một thằng bạn thân lúc học Tam Nhị ở Vơ Tánh Nha Trang; khi vào Bộ Quốc Pḥng xem niêm yết những ai có trong danh sách vào Thủ Đức khóa 26, tên của Hắn nằm ch́nh ́nh trên giấy. Nó có tên nhập ngũ, thôi th́ ḿnh cũng đi với nó cho vui, trước sau ǵ rồi cũng vào cái cổng quân trường này thôi! Thế là tiện chân tôi vào văn pḥng gần đó làm thủ tục ghi danh.
Tuổi trẻ của tôi là thế đó, không hề muốn hỏi ư kiến một ai khi quyết định làm việc ǵ từ nhỏ đến lớn, kể cả cha mẹ tôi. Mà ngay từ khi tôi lên trung học là đă xa gia đ́nh, cho nên mọi việc ḿnh phải tự lo, trừ chuyện ngửa tay xin tiền cha mẹ, riết rồi trở thành tự tung tự tác. Xứ Tam Quan hồi bấy giờ (1958) chưa có trường trung học. Tôi phải khăn gói cùng bạn bè đồng lứa từ Tam Quan lên Bồng Sơn thi vào Trung Học Tăng Bạt Hổ. Hồi đó ai được lọt vào trường Tăng Bạt Hổ cũng là hạng ngon lành rồi, cả ngàn học sinh dự thi mà trường chỉ có ba lớp đệ thất, mỗi lớp tối đa sáu chục đứa… th́ thằng nào lọt được vào trong số 120 đứa đó là cái mặt đă hinh hỉnh ngó lên trời rồi c̣n ǵ!
Đậu bằng Đệ Nhất Cấp, tôi lại tự ư muốn đi học xa hơn nữa. Có lẽ do tôi sinh hoạt trong phong trào Hướng Đạo nên ư tưởng phiêu lưu cứ thôi thúc. Nhân cuộc nghỉ hè Nha Trang, mê cảnh đẹp và mê cả cái khung cảnh của Trường Vơ Tánh, nên tôi t́m cách vào học trường này. May là Ba tôi có một ông bạn thân đang làm ăn khấm khá ở Nha Trang, trên đường Hoàng Tử Cảnh. Ông có ba đứa con đang học tiểu học, đứa lớp nhất, đứa lớp nh́ và đứa lớp tư, nhận tôi làm thầy dạy kèm tư gia, nuôi ăn ở luôn. (Hồi đó tiểu học được đếm từ thấp đến cao là lớp năm, lớp bốn, lớp ba, lớp nh́, lớp nhất). Trung học Đệ Nhất cấp th́ cũng được sắp đặt theo hệ thống từ Đế Thất, Đệ Lục, Đệ Ngũ, Đệ Tứ. Đệ Nhị cấp th́ lại theo thứ tự từ dưới lên là Đệ Tam, Đệ Nhị, Đệ Nhất. Hệ thống giáo dục sau này th́ tính theo thứ tự từ lớp Một đến lớp Mười Hai, nghe có vẻ xuôi tai hơn!
Sở dĩ tôi dài ḍng văn tự như vậy là v́ tôi muốn nói lên cái sự đời dây mơ rễ má, nó cứ xuyên chằng chịt trong suốt cuộc hành tŕnh một con người. V́ tôi học ở Vơ Tánh Nha Trang, nên mới chơi thân với thằng bạn gốc Hoa này, và cũng có nó nên tôi lại làm quen được với một cô nữ sinh Đệ Tam lúc bấy giờ cũng gốc Chệt. Cô nàng sau này, khi ra trường Thủ Đức, tôi cưới nàng, lúc ấy nàng đang là cô giáo trường Đức Trí Ninh Ḥa. Sau khi cưới nhau, tôi dụ nàng bỏ bầy trẻ, theo tôi ra đơn vị. Có lẽ v́ yêu tôi, nên nàng cũng mù quáng nghe lời xúi bẩy, bỏ trường, bỏ Ninh Ḥa thân yêu để theo tôi đến bất cứ nơi nào tôi đóng quân. Nàng cũng từng nằm dưới hầm đầy bọ chét ở Tam Quan những đêm VC pháo kích, trong lúc tôi đang ở tiền đồn. Năm 1972, Nàng ôm đứa con một tuổi rưỡi và cái bụng bầu bảy tháng leo lên phi cơ chạy khỏi Pleiku trong lúc tôi ứng chiến với đồng đội trong Mùa Hè Đỏ Lửa…
Trở lại chuyện quân trường Thủ Đức, v́ từ hai chữ này mới xảy ra lắm điều. Mới nhắc đến th́ trong đầu tôi lại nhớ câu chuyện từ trại tù Long Khánh năm 1976. Một hôm anh em tù ngồi ăn trưa sau giờ lao động, Thằng Chánh Ruồi đố ai đối được câu “Trai Thủ Đức năm canh thức đủ” thưởng hai điếu thuốc lào. Dĩ nhiên là có nhiều câu đối lại như “gái G̣ Công vừa Gồng vừa Co hay Gái Cù Mông khóc đ̣i Cồng Mu”… Nhưng có anh đối lại câu này ngay địa danh gần cận trại tù Long Khánh: ” Gái Chứa Chan ngày ngủ chán chưa?”. Mới nghe qua ai cũng khoái, nhưng chỉnh th́ không được chỉnh lắm. Núi Chứa Chan ở Long Khánh là núi một, nằm trơ vơ giữa đồng bằng… Dân xuất xứ từ quân trường Thủ Đức, dù bị nhốt trong tù cũng nhớ đến những ngày tháng đậm đà nét đặc thù lính và niềm hănh diện riêng tư.
Ngày đầu tiên tôi làm lính đă bị ăn hiếp. Số là từ nơi tŕnh diên nhập ngũ, chúng tôi được xe chở vào quân trường Thủ Đức. Nơi đây các Sinh Viên Sĩ Quan khóa 25 đứng chờ sẵn, nhận phân phối cho các Đại Đội khóa sinh. Tôi là một trong 20 tên đầu tiên thành lập Đại Đội 10. Doanh trại Đại Đội nằm ngay phía sau Khán đài của Vũ Đ́nh Trường. Từ trưa đến chiều các SVSQ đàn anh dẫn đi lănh quân trang. Khi đùm túm về lại trước sân Đại Đội đă là 5 giờ chiều. C húng tôi đang ngồi lục ba lô, túi quân trang xem có cái nào mặc được không. Quân trang cấp phát cái nào cái ấy to đùng, quần lính mới nhận, tôi mặc vào giống như chui vào cái thùng hai lỗ, áo trận cũng thế… Chúng tôi đang mặc cả với mấy Hạ Sĩ Quan nhận sửa áo quần, đang đo kích thước th́ nghe đàn anh nghiêm trang kính cẩn đứng lên hô to:
- Nghiêm! SVSQ…X tŕnh diện Đại Tá
- Mấy lính mới này biết hít đất chưa?
- Tŕnh Đại Tá họ mới vào và mới lănh quân trang về Đại Đội.
- Cho hít đất 50 cái!
- Tuân lệnh!
Chúng tôi 20 mạng mới ṭ te, quần áo đủ màu xanh trắng xám… Đứng lớ ngớ giống như mấy con gà nuốt giây thun. Vị Đại Tá ngồi trên xe jeep oai phong lẫm liệt vừa ra một khẩu lệnh làm cho SVSQ đàn anh 25 lúng túng. Anh ta bắt chúng tôi tập họp hai hàng ngang theo khẩu lệnh. Lần đầu tiên nghe lệnh và cũng lần dầu tiên lớ ngớ với hai hàng cong queo, mắt thằng này ngó thằng kia. Phải vất vă gần 15 phút chúng tôi mới ổn định được hai hàng ngang. SVSQ đàn anh đứng trước hàng quân nói lớn cách hít đất và thực hành trước cho chúng tôi xem. Sau đó anh ta đứng lên hô: “Theo lệnh tôi, nghiêm, hít đất bắt đầu…một, lên…hai lên…” Chúng tôi làm theo anh ta, thằng đít cong lên, thằng bụng sà sát đất, thằng làm được hai cái nằm luôn, thằng làm được chừng chục cái. Trông cảnh này thê thảm và tức ḿnh không thể nào tả được. Tôi ngó vị Đại Tá đang ngồi trên xe mà ḷng vô cùng hối tiếc. Nghĩ rằng ḿnh đă quyết định vội vàng để bị sĩ nhục như vầy…
Vị Đại Tá quan sát chúng tôi rồi ra lệnh tiếp: ” 50 nhảy xổm!” Anh SVSQ mang Alpha trên vai gập chân cái cốp: ” tuân lệnh!”… Chúng tôi lại tiếp tục được dạy dỗ cách nhảy xổm và lần lượt rơi rớt như những thằng bất lực, mặt mày trông chẳng giống ai! Nh́n hiện trường thê thảm đó, vị Đại Tá cầm can chỉ huy ra lệnh cho tài xế lái đi. SVSQ đàn anh mừng húm nói với chúng tôi: “Đại Tá Lâm Quang Thơ, Chỉ Huy Trưởng đó! Các anh là khóa đầu tiên áp dụng chương tŕnh huấn luyện Sĩ quan của Mỹ. Sắp tới đây các anh sẽ c̣n bị áp dụng các biện pháp huấn luyện khắt khe.” Khóa 26 SQTB là khóa đầu tiên áp dụng chương tŕnh huấn luyện do Hoa Kỳ yểm trợ từ A đến Z. Chúng tôi, trong chín tuần huấn nhục được đàn anh và Sĩ Quan Cán Bộ quân trường dần bầm dập thành con chi chi! Trước đó, đàn anh lè phè và cũng thường thôi, đến lượt khóa 26 chúng tôi th́: Ra bên ngoài là phải chạy, không được đi. Đến nhà ăn, đến pḥng học… th́ cả Đại Đội chạy theo nhịp đếm của huynh trưởng. Hai người trở lên th́ phải có một người hô to đếm nhịp: ” một hai ba bốn, bốn ba hai một…!” Đàn anh th́ bất cứ chỗ nào, không kể thời gian, muốn phạt đàn em th́ cứ bắt thi hành không cần khiếu nại. Nửa đêm đang ngủ dựng đầu dậy, balô đầy đủ quân trang, nón sắt hai lớp, giày trận trong ṿng 2 phút. Cả pḥng ngủ, anh em đồng khóa đều phải giúp người một tay cho đúng thời gian. Nhưng có đúng hay không th́ vẫn phải bị phạt tiếp cho đến khi sức cùng lực tận… Chín tuần huấn nhục mục đích là: ” Tự thắng để chỉ huy”! Ôi v́ quân lệnh thi hành trước, khiếu nại sau của quân đội, nó biến một thường dân như tôi, rèn luyện trong ḷ Thủ Đức, sau chín tháng quân trường, trở thành một quân nhân đầy hănh tiến!
Trở lại với thằng bạn người Việt gốc Hoa có tên đi Thủ Đức, v́ nó mà tôi phải ba lô nón sắt long đong. Nói như thế cho có vẻ “cải lương” một chút, đổ thừa cho ra vẻ ta đây. Nếu không v́ nó mà di lính th́, với cái bằng Đại Học, sẽ là một công chức dân sự ǵ ǵ đó, để khỏi phải vất vả… có khi khỏi đi ở tù suốt bao nhiêu năm tận ngoài xứ Hoàng Liên Sơn, Yên Báy, Vĩnh Phú…! Suốt thời gian bị huấn nhục, chúng tôi ít có dịp gặp nhau v́ nó ở Đại Đội 3, doanh trại ngay sát hội trường và là nơi dạy vơ thuật, gần trạm xá. Vào quân đội rồi, mỗi đứa mỗi nơi, kỷ luật quân đội làm cho chúng tôi lớn lên về thể chất lẫn tinh thần. Thân h́nh khỏe ra, mặt ngẩng cao và dáng hiên ngang tự tin. Sau lễ gắn Alpha, chúng tôi thường đi phép về Sai G̣n và sống những giờ phút vui bất ngờ trong những ngày đẹp trời nóng bức. Chúng tôi chuẩn bị lên làm đàn anh. Hồi c̣n bị đàn anh khóa 25 phạt liên tục trong thời gian huấn nhục, tôi hay nổi giận ngầm, nh́n những thằng đàn anh đứng trước mặt phạt ḿnh, thề rằng: Mai mốt ra ngoài đời, gặp mặt mày, biết tao! Nhưng khi đă lên làm huynh trưởng, đàn anh khóa 27, tôi mới ngộ ra là ḿnh cũng đang làm cái việc của đàn anh trước kia.
Đàn anh khóa 25 ra trường, chúng tôi thêm một gạch dưới con cá trên cầu vai. Alpha một gạch oai phong lẫm liệt. Lên làm huynh trưởng cũng hách x́ xằng lắm lắm. Bây giờ là lúc truyền thụ lại cho đàn em những ǵ ḿnh học được trước đó và cũng thẳng tay phạt đàn em một cách máy móc để thực hành câu “Tự thắng để chỉ huy”. Những bài học về chiến thuật, địa h́nh, bản đồ… Những ngày ngoài băi bắn tắm nắng đen thui và cái cảm khoái khi xách nón sắt đến cô gái bán xương xâm ngồi trong rừng cao su gạ đổi nón… lấy xương xâm Thủ Đức, húp cả nón sắt, thấy đời ư nghĩa lắm thay.
Cuộc sống và rèn luyện đang tiến đến những giai đoạn buồn vui đầy hănh diện với bộ quân phục đi phép màu vàng, chiều thứ bảy, chúa nhật dạo phố Sài G̣n, Thủ Đức th́ sắp đến Tết Mậu Thân. Lên đàn anh, nên những con hẻm nhỏ lớn trong quân trường đều biết, Hội Quán Sinh Viên chỉ có đàn anh được vào làm đàn em thèm muốn. Nhưng cái Hội quán đó cũng chỉ là một góc càphê nghe nhạc tầm thường. Dạo ấy có mấy thằng nhà giàu đem cuốn băng nhạc Trịnh Công Sơn vào Hội Quán Sinh Viên. Chuyện đồn ầm ĩ lên, Sĩ Quan cán bộ cấm không cho nghe, nhưng vẫn nghe lén lút. Chuyện đời là thế, cái ǵ cấm th́ cái đó đắt hàng. Hồi đó, lần đầu tiên họ Trịnh đàn và Khánh Ly hát bằng đàn thùng, tiếng khàn khàn của cô bé có vẻ hấp dẫn tụi lính nhóc t́ đang học đ̣i làm chỉ huy ngoài mặt trận. Ôi! Nghe xong thằng nào cũng buồn xo cho cái thân phận của “Một ngh́n năm nô lệ, hai mươi năm nội chiến, người mù trong công viên, người điên trong thành phố, đàn ḅ vào thành phố và gia tài tan hoang của mẹ…”
Một trong những ngơ nghách mà đàn anh biết được, lại c̣n chỉ cho đàn em là mấy cái “lỗ chó” xung quanh quân trường. Muốn “chuồn” về Sài G̣n, chỉ cần gởi súng cho bạn và chui qua cái lỗ đó là “biến” vào đêm… sáng hôm sau lại chui vào tỉnh bơ như người mới hết “phiên gác đêm xuân”. Trong dịp Tết Mậu Thân, thằng bạn thân về Ninh Ḥa thăm gia đ́nh, buồn quá tôi chuồn về Sài G̣n bằng cái lỗ chó đó. Ba má tôi sống trong một căn nhà tôn, trong khu lao động, phía sau chùa Ấn Quang, trên đường Bà Hạt Chợ Lớn. Năm 1965, Ở Tam quan đă mất an ninh, gia đ́nh tôi đùm túm vào ở trong cái hẻm sâu hun hút và nóng như ḷ hầm gạch. Thế mà cả gia đ́nh gần mười người chen chúc, buổi trưa nóng, ngồi dưới mái tôn thở ra khói… Đang vui Tết th́ trong hẻm nhà tôi đầy những tên lính quần đùi, ở trần, non choẹt, cầm súng ǵ lạ hoắc. Đó là theo lời “báo cáo” của mấy đứa em tôi. Sáng mồng một Tết, tôi đang mặc quần đùi áo thun ngồi uống trà với ba tôi, ông bảo tôi ra xem thử lính ǵ mà ăn bận kỳ cục vậy. Tôi vào sâu trong hẽm thấy mỗi góc một tổ ba, quần đùi, nói tiếng khó nghe, súng loại ǵ tôi không biết, v́ quân trường Thủ Đức chưa có dạy, ngoài súng Garant M 1, thompson, cold 45… ( Sau này tôi mới biết đó là AK 47).
Tôi trở về nói với gia đ́nh, tôi nghi chúng là VC. Ba tôi sợ, bảo tôi bận áo quần dân sự, cuốn gói quần áo nhà binh trong bọc. Sau đó ông chở tôi sang nhà quen ở Bến Chương Dương xin ở tạm. Trực thăng bắt đầu vần vũ trên bầu trời, tôi leo lên sân thượng nhà người quen quan sát và nghe radio. Biết đích xác Cộng Sản vi phạm đ́nh chiến dịp Tết, tấn công cùng lúc vào hầu hết các tỉnh thành và ngay cả thủ đô. Sài G̣n trong cơn hỗn loạn và địch quân cũng xâm nhập nhiều nơi… Tôi t́m cách liên lạc cho Ba tôi biết là khu vực nhà ḿnh ở có thể bị oanh tạc, có thể bị cháy, nên cả nhà phải di tản gấp không cần ǵ của cải, đồ đạc trong nhà. Thế là sau khi chúng tôi chạy khỏi khu Bà Hạt th́ một cuộc chạm súng và oanh tạc dữ dội khiến cho cả một khu vực sau chùa Ấn Quang rộng lớn bị thần hỏa thiêu rụi, không biết là đám con nít quần đùi mang súng AK có thoát khỏi tử thần không, nhưng hàng ngàn gia đ́nh dân chúng lao động, trong đó có gia đ́nh tôi, đều phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất…
Tôi phải t́m cách trở về đơn vị. Ba tôi chở xe gắn máy đến trước cổng quân trường. Tôi phải chui lỗ chó trở vào trong lúc bên trong báo động ứng chiến, với quân số chỉ c̣n mấy trăm mạng kể cả cơ hữu và SVSQ khóa 27 ṭ te chưa biết ǵ và một số đàn anh nào nhát gan không dám chui lỗ chó! Về đến đơn vị tưởng sẽ bị nhốt 301, nhưng vị Sĩ Quan cán bộ thấy tôi về mừng quưnh cho vào mang súng ứng chiến với đàn em. Hóa ra các Sĩ Quan Cán Bộ Đại Đội cũng “chuồn” về nhà ăn Tết hơi nhiều chưa tŕnh diện kịp, trước cuộc tổng tấn công bất ngờ, không tôn trọng lệnh hưu chiến của Cộng Sản!
Từ sau Tết Mậu Thân, khóa 26 chúng tôi không c̣n dịp nào về phép thứ bảy chúa nhật như thường lệ; mà phải trực ứng chiến chung quanh pḥng tuyến quân trường cùng đàn em khóa 27. Chuyện phạt huấn nhục thời gian 9 tuần cho đàn em hết c̣n “linh” v́ đàn em với đàn anh trong những ngày sau Tết Mậu Thân hầu như trở thành một khóa. Trong dịp đi phép ăn Tết, khóa 26 tổn thất một số SVSQ. Đó là những anh về Huế, họ không bao giờ c̣n trở lại quân trường, xác thân của họ có lẽ cũng đă nằm chung trong những nấm mồ tập thể tại cố đô…
Những chuyện vặt vănh ở quân trường th́ khóa nào cũng giống khóa nào. Khác nhau chăng là v́ những biến cố đặc biệt trong cuộc chiến tranh. Khóa 26 của chúng tôi bị rơi vào khoảng thời gian cả miền Nam hứng chịu hành động lật lọng của địch quân, lợi dụng ḷng tin và quân tử Tàu của người miền Nam. Khóa đàn em 27 cũng chung số phận. Trận Mậu Thân kéo dài đến gần cuối năm, tháng 6 năm 1968, chúng tôi ra trường. Chẳng có khóa Thủ Đức nào mà sau khi làm lễ ra trường, mang lon Chuẫn Úy xong là lên xe GMC và các phương tiện khác để ra đơn vị theo nhu cầu cấp bách. Đây là kỷ niệm không bao giờ quên của anh em Sĩ Quan khóa 26 cùng vợ con thân nhân của họ…
Sinh viên sĩ quan Thủ Đức
Thằng bạn tôi được xung vào Biệt Động Quân, tôi về tiểu khu B́nh Định. Sau hai năm xa nhau, chúng tôi lại gặp nhau ở Pleiku. Hắn về Liên Đoàn 22 BĐQ đóng ở Biển Hồ. Tôi về ĐĐ/CTCT Tiểu Khu Pleiku. Vợ nó với vợ tôi là hai chị em bạn d́. Số phận chúng tôi gắn liền nhau theo vận nước trong Mùa hè Đỏ Lửa, trong cuộc di tản đầy lệ máu và phẫn nộ trên Tỉnh Lộ 7, tháng 2 năm 1975.
Liên Đoàn BĐQ di tản về Tuy Ḥa cùng hàng vạn dân chúng và gia đ́nh binh sĩ. Tất cả các đơn vị cùng đi trên một con đường độc nhất và cùng chịu cảnh tan ră từng phần một cách vô cùng lạ lùng trên trang quân sử cổ kim. Tháng 2-1975, tôi được thuyên chuyển về Đặc Khu Cam Ranh, v́ thế mà thoát được cảnh thê thảm trên Lộ 7 chỉ trong đường tơ kẻ tóc. Tôi sẽ có dịp kể về số phận may rủi như thế nào khi tôi đổi khỏi Tam Quan, Bồng Sơn năm 1970 th́ nơi đó bị đánh chiếm năm 1972. Vừa đi khỏi Pleiku hai ngày th́ đường 19 bị cắt đứt và mấy ngày sau, 10-3-1975, Ban-mê-thuột rơi vào tay giặc, để rồi 17 tháng 3 năm 1975, cuộc di tản vô tiền khoáng hậu từ cao nguyên về đồng bằng đầy máu xương hận tủi…
Bạn tôi đùm túm một vợ và ba đứa con trên đoàn xe di tản. Đứa con trai lớn lúc đó mới vừa năm tuổi, một đứa hai tuổi rưỡi, đứa mới vừa sáu tháng… Sau một cuộc hỗn quân hỗn quan bên bờ sông Ba, thằng bạn tôi bị VC bắt làm tù binh, trong lúc trông con cho vợ đi kiếm nước uống. Bắt tù binh th́ chỉ cần bắt người mang ba mai mà thôi, c̣n ba đứa nhỏ th́ sống chết người CS đâu có trách nhiệm!(?) Nên khi người mẹ trở về lối cũ t́m con t́m chồng, th́ hỡi ôi, chẳng c̣n gặp ai, bà ta lúc ấy giống như con mụ điên, đi trong rừng mà không c̣n nhớ ǵ ngoài tên và h́nh ảnh chồng con của ḿnh. Thằng bạn của tôi, sau 30-4-75, bị đưa về trại “cải tạo” ở Tuy Ḥa. Ba đứa con th́ biệt vô âm tín. Vợ nó bao phen đi t́m con, trở lại đường Trường Sơn xưa, ngóng trông tin tức nhưng đều thất bại.
Có một người lính BĐQ trong đơn vị bạn tôi, sau này đi buôn bán với người Thượng. Một hôm, anh thấy một thằng nhỏ độ tám tuổi đang chăn trâu trông không giống người Ra đê, hao hao như người Việt. Anh ta đến gần quan sát và hỏi nhỏ:
- Mày là người Kinh hay người địa phương?
Thằng nhỏ nh́n chung quanh không có ai, kề tai nói nhỏ:
- Con là con của Đại Úy H…
Nói rồi nó vừa nh́n người lạ vừa đi giật lùi vào phía trong b́a rừng. Người lính có tấm ḷng này t́m đến vợ của bạn tôi ở Ninh Ḥa báo tin. Thế là một cuộc mặc cả để có được sự trùng phùng trong nước mắt, đầy ân nghĩa và may mắn. Hai đứa con nhỏ kia cho đến nay vẫn biệt tăm. Đứa bé thất lạc đó giờ đây là một Kỹ Sư tin học, đang làm việc cho một công ty lớn ở Hoa Kỳ, có vợ và đă bốn con. Sau khi định cư theo chương tŕnh HO, gia đ́nh bạn tôi nh́n đứa con suưt thành người Thượng, giờ nầy đang hạnh phúc với cuộc sống mới nói với tôi:
- Nhân định như thử như thử, Thiên ư dĩ nhiên dĩ nhiên…
Lê Anh Dũng
Phuong Nguyen
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tiếng Việt với những danh từ trong ngoặc đơn
Tiếng " Việt Cộng " viết nguyên văn
Ôi Tiếng Việt Sẽ Đi Về Đâu !
Trong một lần đếm ( theo thống kê ) những chiếc F-16 Falcon đă bắn hạ 76 máy bay địch. F-16 hiện vẫn là máy bay phổ biến nhất trong nghĩa vụ quân sự ( không quân ) hiện đại ngày nay: trong số 4.500 chiếc được sản xuất, gần 2.700 chiếc hiện vẫn đang phục vụ ở khoảng 26 quốc gia. Không cần phải nói, chiến đấu cơ thế hệ thứ tư tiên tiến của thập niên 1980 sẽ ở lại với chúng ta trong một thời gian dài hơn.
F-16 SHOT DOWN F-35A TẠI Cuộc tập trận RedFlag
F-16 động cơ đơn ( một ) tận dụng các công nghệ thiết kế
( kỹ thuật ) mới để tối đa hóa hiệu suất động học ( phát triển tối đa năng xuất về khí đông học ) . Một động cơ Pratt & Whitney F100 mạnh mẽ với đầu hút ( khoang hút gió ) nằm dưới thân máy bay có thể tạo ra tỷ lệ lực đẩy tuyệt vời do trọng lượng nhẹ của Falcon, đẩy F-16 lên gấp đôi tốc độ âm thanh ở độ cao. Những chiếc gậy được phát âm ph́nh ra như mui của một con rắn hổ mang từ thân máy bay để hỗ trợ cánh tam giác bị cắt ?, cho phép tốc độ cuộn ( quay lộn ) rất cao.
Buồng láy ( lái ) F-16 như Một tán bong bóng bằng kính phồng lên tạo ra tầm nh́n tuyệt vời cho phi công, người đang ngồi trên chiếc ghế nghiêng 30 độ để giảm bớt lực G khỏi các cuộc diễn tập bạo lực ( thao diễn khốc liệt ). Và F-16 thực sự có thể tạo ra ( điều khiển với )những động tác ( thao tác ) rất dữ dội, trở thành máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên có khả năng bay áp ( gần ) đến lực gia trọng lên đến 9G trong ṿng quay ( quẹo ) chặt chẽ hơn bất kỳ máy bay chiến đấu nào khác của Hoa Kỳ cho đến khi chiếc F-22 Raptor ra đời. Điều này lư giải ( chứng tỏ ) cho Quân đội loại h́nh trong phi đội nhào lộn ( trong các cuộc biểu diễn của đội phi diễn Thunderbirds ) trên không của Thunder Force Thunderbirds.
VeSau
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Dung Hạnh ở Canada về Hà Nội trong một chuyến công tác với đoàn “chuyên gia”.
Nhân lúc rảnh rỗi, cô dắt các bạn đi ăn kem Hà Nội cho biết mùi.
Dưới đây là câu chuyện “Đi ăn kem ở thủ đô Hà Nội” của cô:
Trong một lần đi công tác tại thủ đô Hà Nội, tôi và đoàn chuyên gia Canada bước vào một quán kem sau một ngày làm việc căng thẳng & mệt mỏi.
Dù đă biết Hà Nội đang rất thịnh hành với “bún chửi”, “cháo mắng”, nhưng tôi vẫn ngạc nhiên pha chút ngượng ngùng cùng đồng nghiệp v́ nét mặt khó chịu không che dấu của cô phục vụ trong quán.
Sau nụ cười như thể vừa bị bà chủ nhắc nhở “mày không cười th́ cuối ngày khỏi nănh nương nhá nhá nhá”, cô đặt tấm thực đơn một cái “rầm” trên bàn rồi đứng dang ra xa bấm iPhone chơi, bỏ mặc mấy anh Canadians ngơ ngác tưởng ḿnh phạm lỗi ǵ.
Chỉ có 1 con nhỏ Mít tố nữ là “tui” quê độ nên cóc thèm coi thực đơn luôn !
Vẫn bằng giọng rất nhẹ nhàng & từ tốn, tôi hỏi:
- Tui: Em ơi, em có các loại kem nào ?
- Ẻm: Cái mơ lu trên bàn đây lày !
- Tui: (pà mịa nó, chị mà không chọc được cô em Bắc Kỳ này th́ chị gác kiếm xuống núi luôn !) Cái mơ lu là cái ǵ vậy cưng ?
- Ẻm: Giời ạ ! Mơ lu cũng không biết nà dź à ? Cái nhà chị lày hay nhễ !
- Tui: Cái nhà chị á ? Đâu có ǵ hay đâu cưng ! À mà em có kem ǵ nói đi để chị thông dịch lại cho đồng nghiệp biết.
- Ẻm: Dź cũng có !
- Tui: Dź là dź ?
- Ẻm (bắt đầu “nồng nộn” chơi nguyên một tràng): Dzâu, dzứa, dzừa, va li, na.
Anh bạn đồng nghiệp hỏi bằng tiếng Pháp: “Tôi nghe được một chữ rồi, ở tiệm kem có bán cả va li nữa à ? (V́ nghe như « valise » trong tiếng Pháp).
Tui vừa cười cười, vừa lắc đầu và ngẫm nghĩ chắc kêu cho bạn mấy loại kem Dâu, Dừa và Dứa (Thơm), c̣n ḿnh ăn thử kem Na coi sao.
Người Nam gọi là trái Măng Cầu, người Bắc gọi là trái Na. Kem Măng Cầu của tiệm kem Cô Ba tại Montreal thơm ngon nổi tiếng, bây giờ phải thử kem Na ở Hà Nội chứ.
- Tui: Em cho các anh này kem Dâu, Dừa và Dứa, cho chị kem Na nha.
- Ẻm: Đây bán chứ không cho nhá ! (Ẻm quay phắt vào phía trong, cất giọng như thùng thiếc bể): 1 dzâu, 1dzứa, 1 dzừa, 1 na.
Đang khoái chí cười cười v́ vừa phá cô em Bắc Kỳ cáu kỉnh th́ ...cụp cụp cụp cụp, nàng đă quay trở lại và dện từng ly kem trên bàn nghe như tiếng chày trên sóc Bom bo !
Cứ nh́n màu kem mà đoán th́ các anh bạn đă có đúng thứ các anh muốn, nhưng ly của tôi h́nh như có ǵ đó sai sai !
- Tui: Em ơi, chị gọi kem Na mà, không phải kem màu trắng sao ? Ly này màu nâu có phải lộn ǵ không cưng ?
- Ẻm: Nộn dź mà nộn ! Kêu Na cho Na, nại lói nộn nà thế lào ?!
- Tui: Na phải màu trắng chứ em, Măng cầu đâu có màu nâu.
- Ẻm: Giời ạ, vớ va vớ vẩn cái nhà chị lày ! Tôi bảo kem Na, nà ... sô cô na, tôi có bảo nà trái Na núc lào !!!
Chuyện này có thật 100%, em không phân biệt vùng-miền ǵ đâu, quư vị nhẹ tay cho em nhờ !
Hoang Pham chuyen
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Một vài dữ kiện khá lư thú về đoạn xa lộ được xem là tối tân nhất của Hoa Kỳ này:
Xa lộ 105, c̣n được gọi là Century Freeway hay Glenn Anderson Freeway, được đề án vào năm 1958, và được thêm vào dự án Interstate Highways cuối thập niên 1960s. Một đơn kiện của cư dân địa phương và các nhà hoạt động bảo vệ môi sinh được nạp năm 1972 xin huỷ bỏ dự án này. Dầu vậy, một phát quyết của thẩm phán Harry Pregerson đă được phê chuẩn và ban hành năm 1979, sau đó được tu chính năm 1981, đă cho phép khởi công xây cất xa lộ I-105.
I-110/I-105 interchange in Los Angeles
- Lễ đặt viên đá đầu tiên diễn ra ngày 1 tháng 5 năm 1982 và đoạn xa lộ này được chính thức khánh thành cho công chúng xử dụng lúc 3 giờ 13 phút ngày 14 tháng 10 năm 1993, sau 11 năm 5 tháng và 13 ngày xây cất. Từ sáng sớm ngày hôm đó, cả ngàn người đă đậu xe sắp hàng để chờ được "cắt chỉ" khai trương, để được vinh dự là những người đầu tiên được lái xe trên xa lộ I-105.
- Xa lộ I-105 có 3 lối (lanes) chính mỗi chiều, cộng thêm hai lối phụ dành cho những người đi chung xe, thường được gọi là diamond lanes hay car pool lanes. Ngoài ra, chính giữa xa lộ c̣n được thiết bị với hệ thống đường xe điện hai chiều.
- Tổng số xe cộ xử dụng xa lộ I-105 những ngày sau khi khánh thành là 155,000 chiếc mỗi ngày. Con số này đang trên đà gia tăng và Cal Trans ước lượng rằng vào năm 2010, tổng số xe cộ xử dụng xa lộ I-105 sẽ lên đến 230,000 chiếc mỗi ngày.
- Trong 17.3 dặm của xa lộ I-105, chỉ có 0.5 dặm của xa lộ được xây bằng mặt đường. C̣n lại, 10.7 dặm được xây cao hơn mặt đường và 6.1 dặm thấp hơn mặt đường.
- Xa lộ I-105 có 4 giao điểm nối với xa lộ I-405, I-110, I-710, và I-605. Riêng chỗ giao điểm của xa lộ I-105 và xa lộ I-405 là một công tŕnh xây cất giao điểm xa lộ lớn nhất tại California. Giao điểm này rộng 100 mẫu, gồm 5 tầng và có độ cao hơn một cao ốc 7 tầng, với kinh phí xây cất lên đến 134 triệu đô la. Chỉ riêng đoạn xa lộ tạm thời trên xa lộ I-405 để xe cộ có thể lưu thông trong gian xây cất giao điểm, tốn phí đă lên đến hơn 20 triệu đô la.
- Để hoàn thành xa lộ I-105, Cal Trans đă mua lại nhà, đất của 25,000 cư dân địa phương.
- Cal Trans đă xử dụng 930 mẫu đất, 2.3 triệu cubic yards xi-măng, 115,000 tấn thép, đào xới 16 triệu cubic yards đất và lấy đi 500,000 cubic yards đất bị ô nhiễm.
- Công tŕnh này là công sức của 200 nhân viên tiểu bang, và hơn 1500 nhân viên thuộc các hăng thầu.
- Công tŕnh xây dựng xa lộ I-105 đă mang lại hơn 18,000 công việc, cùng gián tiếp hỗ trợ hơn 27,000 công việc khác.
Những quy luật về đặt danh số cho xa lộ:
Có khi nào bạn tự hỏi những danh số đặt tên cho Xa lộ Liên bang và Tiểu bang có ư nghĩa ǵ không ? Xin thưa, chúng đều có ư nghĩa và buộc phải theo một hệ thống nhất định. Vào năm 1957, dấu hiệu và danh số dành cho Xa lộ Liên bang được phổ biến. Theo quy luật này, dấu hiệu của Xa lộ Liên bang sẽ có h́nh khiên, mũi nhọn quay xuống, gồm ba màu xanh dương, trắng và đỏ (màu đỏ ở trên, xanh dương ở dưới, nền trắng, chữ trắng). Cũng theo quy luật này, những Xa lộ Liên bang mang hai con số sẽ được xem như những xa lộ chính. Nếu một xa lộ chính chạy theo hướng Nam-Bắc, nó sẽ mang số lẻ, và ngược lại, nếu một xa lộ chính chạy theo hướng Đông Tây, nó sẽ mang số chẵn. Số nhỏ dành cho những xa lộ bắt đầu từ miền Tây và miền Nam và số lớn dành cho những xa lộ bắt đầu từ miền Đông và miền Bắc. Thí dụ như xa lộ liên bang 5 (số zero được hiểu ngầm), sẽ chạy theo hướng Nam-Bắc và bắt đầu từ Nam California, trong khi đó, xa lộ liên bang I-10, sẽ chạy theo hướng Đông-Tây và cũng bắt đầu từ Nam California.
Những xa lộ liên bang có 3 con số là những xa lộ ṿng đai hoặc xa lộ phụ thuộc vào xa lộ chính. Chẳng hạn như xa lộ liên bang I-405 là xa lộ phụ của xa lộ liên bang I-5 và xa lộ liên bang I-210 là xa lộ ṿng đai của xa lộ liên bang I-10. Xa lộ ṿng đai hoặc xa lộ phụ cũng phải theo quy luật chẵn, lẻ như xa lộ chính, tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp ngoại lệ. Trường hợp ngoại lệ điển h́nh là Xa lộ Liên bang I-110 hoặc Xa lộ Liên bang I-710, hai xa lộ phụ của Xa lộ Liên bang I-10, tuy mang số chẵn nhưng chúng lại chạy theo hướng Bắc-Nam.
Dấu hiệu cho Xa lộ Tiểu bang có h́nh dáng và màu sắc tùy mỗi tiểu bang quyết định. Tại California, xa lộ tiểu bang có màu xanh lá cây trên nền trắng, chữ trắng, cũng h́nh khiên nhưng với mũi nhọn chỉ lên trời, như xa lộ tiểu bang CA-91 hoặc xa lộ tiểu bang CA-22. Xa lộ Tiểu bang không nhất thiết theo quy luật chẵn lẻ, điển h́nh là xa lộ Tiểu bang CA-91, tuy mang số lẻ nó lại chạy theo hướng Đông-Tây.
Ngoài hai hệ thống xa lộ liên bang và tiểu bang như đă đề cập, chúng ta c̣n có một hệ thống xa lộ nữa được gọi là Xa lộ US (US Highways). US Highways là một loại hệ thống Xa lộ Liên bang nhưng đă tồn tại trước khi bộ luật Federal Aid Highway Act (FAHA) ra đời. Hệ thống xa lộ này được thành lập đầu tiên vào năm 1925 bởi Federal Aid Highway Act để thay thế sự lẫn lộn của những xa lộ dùng tên gọi (chẳng hạn như xa lộ Lincoln Highway nối liền New York với San Francisco, đă được thay thế bằng US40, sau này trở thành Xa lộ liên bang I-80 tại California). Xa lộ Hoa Kỳ có dấu hiệu cũng h́nh khiên, màu trắng, viền đen, chữ đen với mũi nhọn quay xuống. Hiện nay, phần lớn những Xa lộ Hoa Kỳ đă được thay thế bằng những Xa lộ Liên bang hay Tiểu bang, nhưng một số vẫn c̣n tồn tại, chẳng hạn như xa lộ US-101, hoặc xa lộ US-395.
Nhiều người thường lầm tưởng rằng Xa lộ Liên bang (Interstate Highways) là xa lộ nối liền các tiểu bang c̣n Xa lộ Tiểu bang (
State Highway
) là xa lộ chỉ chạy trong phạm vi tiểu bang mà thôi. Điều này không hoàn toàn đúng như vậy. Chỉ có xa lộ chính mới chạy xuyên tiểu bang, thí dụ như xa lộ Liên bang I-10 hoặc I-40. C̣n những xa lộ Liên bang phụ hoặc xa lộ ṿng đai chỉ chạy trong phạm vi tiểu bang. Điển h́nh là Xa lộ liên bang I-105 chỉ chạy từ Norwalk đến El Segundo, thuộc tiểu bang California.
Sự khác biệt giữa Xa lộ Liên bang và Xa lộ Tiểu bang ở chỗ Xa lộ Liên bang được tài trợ và chi phối bởi liên bang, trong khi đó Xa lộ Tiểu bang hoàn toàn do tiểu bang chi chuẩn. Một điều đáng được ghi nhận là tiểu bang Alaska không có xa lộ Liên bang nhưng tiểu bang Hawaii th́ có, được biết dưới tên là xa lộ Liên bang H1.
Những điều cần biết khi xử dụng xa lộ:
Như đă thưa ở trên, xa lộ tại Hoa Kỳ được xem như con đường an toàn và hữu hiệu nhất cho những người lái xe ô tô. Đúng vậy, so với các đường trong thành phố, số tai nạn tử vong trên xa lộ rất thấp và thời gian để đi từ điểm A đến điểm B rất ngắn. Thời gian di chuyển trên xa lộ so với đường trong thành phố, nhất là nếu bạn phải đi xa, thường chỉ bằng một nửa hoặc ngắn hơn. Tuy vậy, lái xe trên xa lộ không phải là không nguy hiểm v́ tốc lực xe chạy trên xa lộ rất cao, có thể lên đến 75 hay 80 dặm/giờ. Với một tốc lực cao như vậy, nếu bạn lạc tay lái đâm vào thành xi măng chắn hoặc đâm vào xe ngược chiều th́ kể như tiêu đời.
Với tư cách là một giảng viên của National Traffic Safety Institute (NTSI), tác giả xin được đóng góp một vài ư kiến thô thiển cùng những kinh nghiệm thâu thập được trong nghề ngơ hầu có thể giúp bạn đọc lái xe an toàn hơn và tránh được bị các ông bạn dân chiếu cố:
1. Luôn giữ xe trong t́nh trạng toàn hảo. Chiếc xe của bạn là một trong bốn yếu tố khiến 6,300,000 tai nạn đă xảy ra hằng năm, đưa đến sự tử vong của gần 50,000 người. Bảo tŕ xe là một trong những phương cách có thể giúp giảm thiểu sự nguy hiểm trong việc lái xe. Hăy kiểm soát hệ thống thắng xe của bạn thường xuyên, ít nhất mỗi 15,000 dặm. Đừng để mực dầu thắng xuống thấp hơn mực tối thiểu. Nên thay vỏ bánh xe nếu chúng đă ṃn quá 1/32 của một inch.
2. Tránh xử dụng những xa lộ được mệnh danh là xa lộ tử thần (killer highways), nếu bạn có thể xử dụng những xa lộ khác. Xa lộ tử thần là những xa lộ tiểu bang, chạy xuyên qua những tỉnh lẻ, thường được gọi là những xa lộ đồng quê (country highways), thí dụ như Xa lộ Tiểu bang CA-71. Loại xa lộ tiểu bang này chỉ có hai lối (lanes) đi và về, không có tường chắn ở giữa. Chúng chỉ được ngăn đôi bằng hai vạch vàng liên tục, hoặc đôi khi, một vạch liên tục và một vạch đứt đoạn một bên. Đây là dấu hiệu cho phép tài xế được lấn sang phần đường bên kia để qua mặt xe đằng trước. Lư do những xa lộ này được mệnh danh là xa lộ tử thần v́ số tử vong hằng năm trên những xa lộ này rất cao, phần lớn do tài xế qua mặt một cách bất cẩn, hoặc do tài xế mệt mỏi, ngủ gục và đâm qua lối đi ngược chiều.
Những điều cần ghi nhớ nếu bạn buộc phải xử dụng những xa lộ này:
1. Nếu bỗng dưng bạn thấy xe ngược chiều đâm sang lối của bạn, việc đầu tiên là hăy giữ b́nh tĩnh, bóp kèn hoặc pha đèn để cảnh giác người tài xế với hy vọng anh ta sẽ trở về lối của anh ta. Nếu đèn và kèn không mang lại kết quả, hăy lạng xe về hết bên phải để tránh tai nạn. Không bao giờ lạng về bên trái v́ người tài xế xe ngược chiều có thể giật ḿnh và
trở về lối của anh ta.
2. Chỉ qua mặt khi lằn kẻ vàng bên phần đường của bạn đứt đoạn. Không bao giờ qua mặt tại những khúc quanh, trên dốc và nhất là không bao giờ qua mặt vào ban đêm nếu bạn có thể thấy được hai ánh đèn xe ngược chiều, mặc dù chúng rất nhỏ. Lư do rất dễ hiểu là bạn sẽ không ước lượng chính xác được khoảng cách giữa xe của bạn và xe bên kia, do đó bạn sẽ không đủ th́ giờ để vượt xe đằng trước bạn một cách an toàn.
3. Luôn luôn giữ khoảng cách an toàn đối với xe đằng trước. Khoảng cách giữa xe của bạn và xe đằng trước được xem là an toàn khi xe đằng trước bạn bất chợt thắng gấp mà bạn vẫn có thể thắng kịp để không gây ra tai nạn. Khoảng cách này được đo bằng thời gian, được đề nghị là 3 giây cho điều kiện thời tiết b́nh thường. Nếu trời đang mưa hoặc có sương mù, khoảng cách này phải được tăng lên, 4 hoặc 5 giây hoặc lâu hơn nữa. Để biết được khoảng cách an toàn giữa xe của bạn và xe đằng trước, hăy để ư chiếc xe trước mặt. Khi chiếc xe này đến một điểm cố định, chẳng hạn như cột đèn, th́ bạn bắt đầu đếm thầm, chậm răi: một ngàn lẻ một, một ngàn lẻ hai, một ngàn lẻ ba. Nếu sau khi đếm tới một ngàn lẻ ba mà xe của bạn chưa đến điểm cố định đó, bạn đă giữ được khoảng cách an toàn. Bằng không, bạn đang đánh bài với sinh mạng của ḿnh.
4. Đừng vượt quá vận tốc giới hạn. Tốc lực tối đa của tiểu bang California là 65 dặm/giờ, ngoại trừ trong những trường hợp điều kiện an toàn cho phép, tốc lực tối đa được tăng lên 70 dặm/giờ. Trên lư thuyết, nếu bạn vượt quá vận tốc giới hạn dầu chỉ 1 dặm, cảnh sát có quyền cho bạn ticket v́ tiểu bang California, cùng 31 tiểu bang khác, áp dụng luật "tốc lực giới hạn tuyệt đối" (absolute speed limit). Tuy nhiên, trên thực tế, cảnh sát thường không viết ticket cho bạn nếu bạn chỉ vượt quá khoảng 5 hoặc 7 dặm. Trong mọi trường hợp, tác giả thành thật khuyên các bạn đừng lái xe quá tốc lực, nhưng nếu bạn là người thích lái xe nhanh, thích t́m cảm giác mạnh, các bạn cần ghi nhớ những điều sau đây để tránh khỏi bị ăn ticket của những ngài cảnh sát:
- Tránh xử dụng lane số 1 (lane sát giữa đường hoặc cạnh diamond lane)
- Tránh đổi lane nhiều lần
- Tránh bám đuôi xe khác quá gần
- Đừng dán kính màu cửa kính trước của xe (phần ghế tài xế và hành khách kế bên)
- Đừng sơn sửa xe để nó có h́nh dạng quá nổi bật như cắt ống nhún cho xe thấp gần sát đất, dùng bánh xe có đường kính 20 inch, sơn xe màu thật nổi như xanh lá cây lợt hoặc vàng, xi bô xe, cảng xe bóng loáng, gắn đèn neon chung quanh hay dưới lườn xe…
Khi có nhiều người vi phạm cùng một lúc, cảnh sát sẽ cho ticket những người nào mà họ cho là dễ bắt nhất, nổi bật nhất và vi phạm lộ liễu nhất.
- Đừng bao giờ qua mặt cảnh sát. Khi lái xe trên xa lộ, bạn hăy để ư đến những xe cảnh sát chạy chậm trong lane trong cùng. Đây là những ông bạn dân đang làm nhiệm vụ của họ là canh bắt những người vi phạm vận tốc giới hạn. Nếu không muốn bị ăn ticket, bạn hăy giữ cùng vận tốc với họ. Khi thấy họ exit ra khỏi freeway, đừng vội nhấn ga đi tiếp v́ nghĩ rằng bạn đă thoát nạn. Trong nhiều trường hợp, họ chỉ vờ exit nhưng thật ra họ rẽ vào con đường nhỏ bên cạnh và bọc lên freeway trở lại.
Và cuối cùng…
5. Đừng lái xe trên car pool lanes nếu bạn chỉ đi một ḿnh. Car pool lanes hay diamond lanes là những lối đi đặc biệt trên xa lộ, hoặc lối ra xa lộ, chỉ dành riêng cho những xe có hai, hoặc ba người trong xe trở lên. Tiền phạt tối thiểu cho những người vi phạm car pool lanes cho tiểu bang California là 271 đô. Đừng ra hoặc vào car pool lanes ở những nơi mà những đường kẻ màu vàng liên tục. Chỉ ra và vào khi nào những đường kẻ đứt đoạn. Vi phạm điều này, bạn cũng sẽ ăn một ticket giống như trường hợp của lái xe trên diamond lane một ḿnh.
Để chấm dứt bài viết này, tác giả xin kể cho các bạn một chuyện vui mà tác giả thường kể cho các học viên trong lớp xoá ticket. Có một bà Mỹ sồn sồn, ḍng dơi luật sư (bố là luật sư, chồng là luật sư, anh em có nhiều người làm luật sư). Bà bị lănh một ticket cho tội lái xe trên diamond lane một ḿnh. Thay v́ đóng phạt rồi xin đi học traffic school, bà chọn việc ra toà tranh căi cho sự vi phạm của bà. Đứng trước mặt quan toà, khi được hỏi: "Có tội hay không có tội?" bà đă anh dũng thưa với quan toà rằng: "Không có tội".
Quan toà tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi bà:
- Bà lái xe trên diamond lane một ḿnh bị cảnh sát bắt, xin bà hăy giải thích về sự vô tội của bà?
Bà liền lôi trong cặp táp ra tờ giấy do bác sĩ cấp, chứng nhận rằng bà đang mang thai 4 tháng, đưa cho quan toà xem. Quan toà liếc mắt nhanh qua tờ giấy, trả lại cho bà mỉm cười:
- Theo luật pháp, đây chỉ mới là thai nhi, không tính là một người. Bà vẫn có tội. Sorry.
Nhưng bà không chịu thua, lớn tiếng thưa:
- Thưa quan toà, ông sai rồi.
Quan toà vẫn cười:
-Tôi sai ? Xin bà hăy chứng minh chỗ tôi sai. Tôi rất muốn nghe sự tŕnh bày của bà.
Bà trả lời một cách tự tin:
- Được, tôi sẽ chứng minh cho ông xem.
Nói xong, bà lại mở cặp, lôi ra một quyển sách luật, mở đến trang đă đánh dấu sẵn, đọc lớn:
- Trong phiên toà ngày ….tại toà án tối cao tiểu bang …. , vị thẩm phán phiên toà đă tuyên án tù chung thân một người đàn ông về tội đă giết chết hai người, đó là người đàn bà mang thai và đứa con c̣n trong bụng của bà ta.
Đọc xong, bà giơ quyển sách luật lên cao, dơng dạc:
-V́ thế, chiếu theo phiên toà này, đứa bé trong bụng tôi là một người.
Xong bà đắc ư cười lớn:
-Haha, tôi đă bảo ông, tôi sẽ chứng minh cho ông xem mà. Ông thua rồi.
Vị quan toà sau khi nghe bà tŕnh bày, gật gù:
-Tôi có lời khen ngợi bà và xin cảm ơn về sự khảo cứu của bà. Hôm nay tôi được học một điều mới. Bà nói đúng, chiếu theo phiên toà này, đứa bé trong bụng bà là một người. V́ lư do này, tôi sẽ tha bà tội lái xe trên diamond lane, nhưng …
Ngưng một vài giây, ông tiếp:
-Tôi buộc phải phạt bà tội …HAI NGƯỜI NGỒI MỘT GHẾ.
Tác giả xin chúc các bạn một ngày thật vui và xin lái xe thật cẩn thận.
Nhân sâm
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Mất cả đêm để hoàn thành 1 bài toán, cậu sinh viên khiến thầy giáo kinh ngạc khi nh́n vào câu trẩ lời.
Đó là 1 bài toán đặc biệt. Thế nên khi nh́n thấy câu trẩ lời của sinh viên, thầy giáo đă không giấu nổi sự kinh ngạc..
Bài toán khó
Vào một ngày đẹp trời năm 1796, trong trường Đại học Gottech ở nước Đức, một chàng trai trẻ 19 tuổi sau khi ăn xong cơm tối liền bắt đầu làm 3 đề toán đă được giáo viên hướng dẫn giao riêng mỗi ngày.
Chàng trai có năng khiếu trời phú về môn toán, v́ vậy nên giáo viên hướng dẫn gửi gắm tất cả hi vọng vào cậu ta, mỗi ngày đều giao thêm cho cậu 2 đề toán tương đối khó để rèn luyện.
Trong t́nh huống thông thường, cậu ta sẽ hoàn thành phần bài tập đặc biệt này trong ṿng 2 tiếng đồng hồ.
"Sao hôm nay thầy giáo lại giao thêm cho ḿnh 1 đề thế này?" Chàng thanh niên vừa mở vở bài tập ra vừa lẩm bẩm, anh chàng cũng không nghĩ nhiều, bắt đầu bắt tay vào làm bài tập.
Cũng giống như b́nh thường, 2 đề trước cậu ta hoàn thành vô cùng thuận lợi trong ṿng hai tiếng. Đề thứ 3 được viết trên một mảnh giấy nhỏ, yêu cầu chỉ dùng compa và một cái thước kẻ không có khắc độ vẽ ra một h́nh có đúng 17 cạnh.
Anh chàng không hề để ư, bắt đầu làm giống như làm hai đề trước đó. Tuy nhiên, càng làm th́ càng cảm thấy tốn sức, cậu ta bắt đầu nghĩ rằng, có lẽ giáo viên thấy ḿnh ngày nào cũng hoàn thành bài tập một cách dễ dàng nên lần này đặc biệt tăng độ khó lên mà thôi.
Nhưng mỗi giây mỗi phút trôi qua, đề toán thứ ba vẫn không có một chút tiến triển ǵ. Chàng trai vắt óc cũng nghĩ không ra kiến thức toán học hiện tại nào của bản thân có thể vận dụng để giải được đề toán này.
Khó khăn khơi dậy ư chí chiến đấu của chàng thanh niên: Ḿnh nhất định phải giải được! Anh chàng cầm compa và thước kẻ vẽ lên giấy, thử những phương pháp thường dùng để giải đề toán này…
Hồi kết
Cuối cùng, khi ánh b́nh minh đầu tiên chiếu vào ô cửa sổ, anh chàng đă thở một hơi thật dài, loay hoay măi, cuối cùng cũng đă giải được đề toán khó này rồi!
Khi gặp được giáo viên hướng dẫn, chàng trai cảm thấy có một chút hổ thẹn và tự trách ḿnh. Cậu ta nói với thầy giáo: "Thầy giao cho em đề toán thứ ba em đă phải làm tṛn một đêm, em đă phụ sự bồi dưỡng của thầy rồi…"
Giáo viên hướng dẫn cầm quyển bài tập của chàng trai, vừa xem qua ông đă ngây người, vô cùng kinh ngạc.
Thầy giáo nói với anh chàng bằng giọng run run: "Bài này là do em làm thật sao?"
Anh chàng biểu lộ sự nghi hoặc trên khuôn mặt, nh́n người thầy đang có biểu hiện khác lạ, trả lời: "Đương nhiên rồi, nhưng có lẽ em c̣n kém cỏi, phải mất một đêm em mới giải được bài toán đó."
Thầy giáo bảo chàng trai ngồi xuống, lấy compa và thước kẻ ra, trải giấy lên trên mặt bàn rồi bảo cậu ta vẽ một h́nh có đúng 17 cạnh ở trước mặt ḿnh.
Chàng trai nhanh chóng vẽ ra một h́nh có đầy đủ 17 cạnh. Thầy giáo vô cùng kích động nói với cậu học sinh của ḿnh: "Em có biết hay không, em đă giải được bài toán chưa ai giải được và nó có lịch sử hơn 2000 năm rồi? Archimedes không giải được, Isaac Newton cũng không giải được, em lại có thể giải được nó trong một đêm! Em đúng là một thiên tài!
Gần đây thầy đang nghiên cứu bài toán khó này, hôm qua lúc chuẩn bị giao bài tập cho em, v́ không cẩn thận nên đă kẹp mảnh giấy có ghi bài toán này vào trong phần bài tập của em."
Nhiều năm sau, chàng trai này mỗi khi nhớ lại câu chuyện đó đều nói: "Nếu có người nói cho tôi biết đó là một đề toán khó, có lịch sử hơn 2000 năm chưa ai giải được, tôi sẽ không thể giải được nó trong ṿng một đêm." Chàng thanh niên này chính là "hoàng tử của các nhà toán học" lừng danh Carl Friedrich Gauss.
Carl Friedrich Gauss là nhà toán học, nhà vật ly học, nhà thiên văn học, nhà trắc lượng học, được sinh ra ở Brunswick, mất ở Göttingen, hưởng thọ 77 tuổi. Ông được đánh giá và một trong những nhà toán học quan trọng nhất trong lịch sử.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Từ thôn quê đến thành thị ở Việt-Nam, đi đến đâu người ta cũng đều thấy Chợ, v́ đây gần như là huyết mạch của đời sống con người. Làng, xă, huyện nhỏ th́ chợ nhỏ, tỉnh thành lớn, chợ lớn theo để đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt của người dân ở tại nơi chốn đó. Hầu hết chợ búa lớn nhỏ đều có xây một nhà lồng chợ ở trung tâm phố chính và mang tên của địa phương, ngoại trừ một số ít chợ lấy tên đặc biệt chẳng hạn như Cố Đô Huế ở miền Trung có chợ Đông-Ba, trong Nam th́ có chợ Bến-Thành tại Sài-G̣n. Tuy nhiên, ở các tỉnh và thành phố lớn, mỗi nơi ngoài chợ chánh c̣n có thêm vài chợ phụ nhỏ nữa, để thuận tiện phục vụ cho đời sống quần chúng tại địa phương, như thành phố có cái tên Đẹp và Thơm là Mỹ-Tho th́ có chợ Hàng Bông, chợ Thạnh-Trị, Chợ Cũ, chợ Ṿng Nhỏ, c̣n ... Chợ Gạo là tên của một quận lỵ cách xa Mỹ-Tho 10 km về hướng tỉnh G̣-Công.
Tôi c̣n nhớ vào giữa thập niên 50, lúc đó tôi chưa đầy 10 tuổi, ngôi chợ Mỹ-Tho do Pháp xây cất tuy c̣n kiên cố, v́ bề ngoài nh́n thấy có rất nhiều cọc sắt lớn nhỏ sơn màu xanh lá cây từ trên tới dưới. Mặc dù chợ chỉ có một tầng trệt, nhưng mái nhà được ngăn làm hai tầng cao thấp bằng ngói, có một khoảng thông hơi và ánh sáng ở giữa, mà tầng trên là h́nh chóp nón dài theo h́nh chữ nhật của ngôi chợ khá cao. Nh́n tổng quát th́ lối kiến trúc không đẹp. Diện tích bên trong nhà lồng chợ có mái che lại không rộng lớn, bởi phần chợ lộ thiên song song dọc theo hai bên chiều dài của nhà lồng chợ đă bằng phân nửa bên trong. Có lẽ v́ thế mà chính quyền địa phương đă cho phá hủy toàn bộ để xây cất mới lại ngôi chợ Mỹ-Tho.
So với chợ cũ th́ mái che chợ mới thấp hơn. Hệ thống thoát hơi phía trên lại không được rộng lớn, v́ thế mà buổi trưa khi trời nắng rất nóng nực. Ngôi chợ mới tứ phía có bốn cổng rộng lớn ra vào với cửa sắt, ban đêm được đóng khóa lại và sáng sớm có người trực trong Ban Quản Lư ở cổng phía đường Nguyễn Huệ đi mở cửa. Chợ Mỹ-Tho h́nh chữ nhật, chiều ngang của mỗi bên có một cổng chánh. Phía trên là một thành vách khá cao mà trên đỉnh có dựng ba chữ “CHỢ MỸ-THO“ to đùng bằng xi-măng sơn màu đỏ tươi.
C̣n cổng ra vào hai bên chiều dài có phần hẹp và thấp hơn chừng một nửa hai cổng chánh, phía trên mỗi bên có xây một bức tường h́nh chữ nhật lớn chừng 3 m x 2 m, ở giữa có hai chữ nổi lớn cũng sơn màu đỏ tươi, bên kia là CỬA NAM, c̣n bên đây là CỬA BẮC, đối diện trực tiếp qua con đường lộ ngắn với cửa nầy là tiệm buôn bán của Ba Mẹ tôi ngày xưa trên dăy phố có mười thương hiệu, con đường phía bên Cửa Nam cũng vậy. Hai dăy phố lầu thương mại hai tầng cùng mang tên là đường Vơ Tánh, được xây cất giống nhau mà chỉ khác số nhà chẵn, lẻ. Mặt ngoài đường và bên trong xung quanh nhà lồng chợ, đều là những tiệm buôn nhỏ xây đâu lưng thống nhất với nhau, mà phần lớn đều bán tạp hóa và hàng vải tơ lụa. Ở giữa trong nhà lồng chợ có một đường đi khá rộng lớn được ngăn đôi từ cổng ra vào từ cửa Nam đến cửa Bắc, một bên dành cho các sạp bán basar, kim chỉ, giày dép, va-li, túi xách, nhưng phần lớn là sạp vải thông với cổng chánh hướng ra đường Nguyễn Huệ. C̣n phân nửa là khu bán tạp hóa và thịt heo, mà cổng chánh hướng ra chợ cá giáp với con sông dài. Nh́n chung với lối kiến trúc cũng như sự phân chia sắp xếp các gian hàng buôn bán bên trong và phía ngoài rất mỹ quan.
Phạm vi chợ Mỹ-Tho tính ra cũng khá rộng lớn, bao gồm từ chợ Hàng Bông phía đường Nguyễn Huệ đến trước rạp hát Vĩnh Lợi, rồi từ bên trái rạp hát đến ngả ba bờ sông đường Trưng Trắc. Trên con đường dài nầy từ dốc cầu quây cho đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp rồi quanh trái giáp ṿng lại với Chợ Hàng Bông. Cộng thêm hai con đường ngắn Vơ Tánh dọc theo hai bên chiều dài của nhà lồng chợ, cùng một đoạn ngắn đường Lê Đại Hành ở giữa, giao tiếp với ngả ba đường Nguyễn Huệ và ngả tư Lê Lợi. Ngoài ra, từ dốc cầu quây phía Chợ Cũ bên phải là con đường Phan Thanh Giản chạy dài cho tới Bến Đ̣, một bên là dăy phố buôn bán, c̣n phía bờ sông đều là những vựa cá, vựa bán trái cây và nông sản phẩm cũng tấp nập không kém bởi ghe xuồng, đ̣ máy chở đầy ắp hàng hóa dài dọc theo bờ sông từ các vùng phụ cận tới. Chợ Mỹ-Tho trước năm 1975 được xem là một chợ sầm uất nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, v́ địa thế nằm gần thủ đô Sài-G̣n hơn các tỉnh miền Hậu Giang, nên phương tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ cũng như đường thủy rất thuận lợi.
Chợ Mỹ-Tho sau một đêm vắng vẻ yên tịnh th́ trở ḿnh bừng sống dậy khoảng ba giờ sáng, với đủ mọi thứ tiếng động ồn ào khá lớn. Bắt đầu từ khu chợ cá khi những ghe cá ở trên sông chạy b́nh-bịch từ các địa phương nhỏ thuộc tỉnh lỵ Mỹ-Tho và Bến-Tre rầm rộ đổ tới, cộng với tiếng đ̣ máy chạy đưa khách từ miền thôn quê lân cận của hai tỉnh nhiều sông rạch nầy lên chợ Mỹ-Tho để bổ hàng. Chiếc máy xay nước đá của depot Chú Cẩu không ngừng nổ máy nghe đinh tai điếc óc để cung cấp nước đá bào cho bạn hàng cá. Những cái máng thiếc to và tṛn cạn đáy đựng cá của mấy bà bán cá ban đêm xếp chất chồng lên được thảy xuống đất nghe xốn cả tai.
Vài chiếc xe hàng nổ máy x́nh-xịt chạy chầm chậm vô chợ cá để lên hàng chở về Sài-G̣n. Tiếng nói chuyện to lớn cũng như lời mặc cả giá tiền của những bà bán cá phải nói là như … bể thùng thiếc giữa không gian vào buổi sáng thật sớm. Lâu lâu cũng không tránh khỏi những tiếng chửi lộn tục tĩu trong chốc lát rồi ngưng. Đó là chuyện xăy ra rất b́nh thường, v́ họ là dân “hàng tôm, hàng cá“ mà! Tiếp theo đó, trên khắp các nẻo đường hướng về chợ Mỹ-Tho, từ Cầu Quây phía bên Chợ Cũ, đường Nguyễn Trải, Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lê Lợi, rừng người mà phần đông là các bà, các cô trong vườn gồng gành rau cải, hoa quả, trái cây đổ xô ra chợ bán, có người c̣n buộc cây đuốc đang cháy lửa trên đầu đ̣n gánh để soi đường đi. Song song đó, những chiếc xe xích lô, ba bánh chất đầy rau cải, trái cây từ hướng Bến Xe Mới vội vă chạy xuống chợ. Tất cả tạo nên một quang cảnh vô cùng sống động cho một buổi chợ sáng bắt đầu.
Bên ngoài c̣n nhá nhem tối, tiết trời thật mát dịu vào buổi sáng đầy sương mai. Dưới ánh đèn đường yếu ớt, đông đảo bạn hàng buôn bán xung quanh chợ nhôn nhao bày những chiếc sạp, dựng mái che hoặc trương những cây dù bằng vải ny-lon cho gian hàng của ḿnh. Nhiều người c̣n đốt những cây đèn khí đá hoặc đèn dầu để thấy đường bày hàng ra. Trong nhà lồng chợ, nơi khu vực bán thịt rộng lớn, những phần nửa con heo xẻ ra từ ḷ heo được xe ba bánh vội vă chở đến. Tiếng hô to để thiên hạ tránh đường của những người khuân vác nặng nhọc, cồng kềnh không ngớt vang dậy bởi ngổn ngang người qua lại. Tiếng dao to búa lớn nghe lạnh cả người của các bạn hàng thịt không ngừng thi nhau phân chia xương thịt, trên những tấm thớt không lồ bằng gốc cây to. Khu bán tạp hóa gần đó cũng bắt đầu lăng xăng bày biện đủ thứ đồ hàng xén ra. C̣n phía bên bán vải vóc có vẻ nhàn hạ, sạch sẽ cũng như sự sắp xếp, bày trí th́ tương đối gọn gàng và ít bận rộn hơn, nên từ bảy giờ chủ sạp mới ra mở cửa hàng, v́ khách của họ gần như không thấy vào giờ nầy, ngoài trừ một số ít người ở miền thôn quê đi đ̣ máy lên thật sớm để mua sắm.
Gần chợ cá dọc theo bờ sông là một dăy tiệm nhà sàn đều bán chén, dĩa, ḷ than, cà-ràng, khạp, lu nước chất đầy thiếu điều không có đường đi trong nhà. Nơi đây mở cửa rất sớm, v́ khách hàng của họ phần đông đều từ trong vườn ra đi chợ. Những xe hủ tiếu, quán cà-phê, tiệm nước Cao-Thăng và Kỳ-Hương gần chợ đă có khách ngồi ăn uống một cách ngon lành.
Đoạn đường Trưng Trắc từ chợ cá đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp gần cây cầu gỗ bắt qua bên kia sông là những sạp bán gà, vịt con kêu chíp-chíp không ngừng nghe rất vui tai. Tiếp đến là các gian hàng bán đồ thủ công nghệ được đan bằng tre, bằng mây như thúng, rổ, đệm, cần xé .v.v. Đến hàng gia cầm heo, gà, vịt là thấy bắt đầu có mùi khó chịu rồi! Nhiều con gà, vịt bị buộc chân dính từng chùm với nhau nằm la liệt dưới đất, một số ít được nhốt trong các lồng tṛn bằng tre. Thỉnh thoảng có những con gà trống đứng hiên ngang cất tiếng lớn gáy sáng. Kế đến là chỗ bán của những người lái heo c̣n tồi tệ hơn nữa về mặt vệ sinh. Những chú lợn sữa được chủ quan tâm cho ở trong mấy cái chuồng nhỏ khối chữ nhật có lưới kẽm. Phần lớn mấy anh Trư Bát-Giới bị trói chặt chân nằm lăn lóc vẫy vùng trên những lớp rơm mỏng dưới đất, một số khó chịu kêu la như đang bị cắt cổ không bằng, có con c̣n phóng uế tại chỗ bừa băi, nhiều con th́ đưa cái bụng phệ sang một bên nằm ngủ ngáy kḥ kḥ …
Khoảng đường Nguyễn Huệ gần đầu chợ đến ngả ba đường Vơ Tánh là khu vực ưa thích và quen thuộc của các bà, các cô, v́ nơi đây tập trung nhiều sạp hàng ẩm thực ăn uống rất thơm ngon như: cháo ḷng, cháo cá, bánh xèo, bánh giá, bánh đậu, bún b́, thịt nướng, chạo tôm, gỏi, b́ cuốn, chè đậu, chè thưng, bánh ít nhưn đậu, nhưn dừa, bánh tét nhưn đậu, mỡ, chuối, bánh quy, bánh khoai ḿ, bánh da lợn, xôi, bắp ôi thôi đủ các thứ ngon miệng. Con đường Vơ Tánh bên số nhà chẵn, phía Cửa Nam nhà lồng chợ là những sạp bán nón lá, kim chỉ, đồ đệm, mây, chiếu nằm, mà ở góc ngả ba đường Nguyễn Huệ, sát tường bên hông của tiệm thuốc Bắc Thọ-Nam Đường, có một kiosque đặc biệt của chú Bảy Ích chuyên bán các loại bánh Tây và trái cây nhập cảng từ Pháp, Hong-Kong như: nho, táo, lê, củ năng, vải khô, hồng khô, hột dưa .v.v. C̣n con đường ngắn số lẻ bên phía Cửa Bắc chỉ bán rau cải mà thôi. Từ đầu chợ đường Nguyễn Huệ đến con đường ngang rạp hát Vĩnh Lợi, là những sạp bán kim chỉ, guốc, nón lá, áo quần may sẵn. Bên phải khoảng giữa dăy phố, có tiệm buôn độc nhất Vân-Phát Hăng chuyên bán khá đầy đủ tất cả các loại rượu mạnh, thực phẩm đồ hộp, pho mai, mức, bánh kẹo nhập cảng không khác nào như một shop ở nước ngoài. Con đường phía trái dẫn đến ngả ba bờ sông là khu bán trái cây, nhưng nơi nầy bán không nhiều và ngon bằng ở đoạn đường ngắn Lê Đại Hành tiếp giáp hai đầu với đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi. C̣n chợ Hàng Bông trái cây với khối lượng lớn thường bán sỉ cho những bạn hàng mua đi bán lại.
Những dăy phố tiệm buôn của người Hoa xung quanh chợ có thông lệ mở cửa lúc 6 giờ sáng, nhưng thật ra vào giờ nầy chẳng mấy tiệm có khách vào mua. Không riêng ǵ tại chợ Mỹ-Tho mà hầu hết ngành thương mại ở các tỉnh thành lớn nhỏ tại Việt-Nam đều do người Hoa nắm giữ, đó chẳng qua v́ họ có biệt tài buôn bán, tháo vác, cần kiệm, chịu cực giỏi và có tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau.
Nói về chợ Mỹ-Tho năm xưa, mà không nhắc đến chợ đêm th́ quả là một điều thiếu sót. Nhớ lại hồi nhỏ, các chị em tôi rất thích chợ đêm, v́ quanh năm suốt tháng chỉ thấy chợ ngày, nên khi gặp chợ đêm th́ lấy làm vui thích lắm! Hàng năm, chợ Mỹ-Tho chỉ có ba buổi chợ đêm vào ngày 27, 28 và 29 tháng chạp Âm Lịch. Trước Tết một tuần, những đoạn đường tráng nhựa thuộc phạm vi chợ, đầu tiên người ta thấy hai bên lề đường, cách khoảng xa xa có hai cái lỗ nhỏ sâu hơn nửa thước, được đào sẵn đối diện song song với nhau. Qua hôm sau, tất cả các lỗ đó đă được dựng lên những cây cột cao chừng sáu mét. Mấy ngày kế tiếp, những sợi dây ch́ được nối liền ở phần trên giữa hai cây cột, rồi có dây điện và sau cùng ở chính giữa có gắn một cái bóng đèn tṛn. Đó là diễn tiến của những giai đoạn để chuẩn bị đèn đuốc cho ba buổi chợ đêm vào cuối năm.
Thực sự th́ với những cái bóng đèn nhỏ được treo vỏn vẹn cách khoảng như thế, độ chiếu xa không đủ sức để tỏa sáng khắp các khu vực chợ rộng lớn, mà phải nhờ có sự phối hợp với những cột đèn đường và ánh sáng từ trong nhiều tiệm buôn dọc theo hai bên phố tăng cường thêm.
So với chợ ngày, dĩ nhiên chợ đêm không náo nhiệt bằng. Những gian hàng bánh trái ăn uống buổi sáng, cùng nhiều sạp buôn bán lộ thiên khác trên đường Nguyễn Huệ, ở hướng đầu nhà lồng chợ được rút lui, nhường chỗ cho các gian hàng bán rượu, trà, bánh mức, kẹo, thèo lèo, chà là, quà cáp và pháo Tết .v.v. Nói đến các sạp bán pháo tiểu, pháo trung và pháo đại th́ trẻ em con trai mê thích lắm! Hiệu pháo nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Từ Quang và Điện Quang, với những phong pháo 100 viên, được bọc trong hộp giấy cứng dẹp h́nh chữ nhật màu đỏ, có giấy kiếng trắng bao bên ngoài. Một cạnh của chiều dài phong pháo để hở, thấy rơ một bên hai hàng dài “đít” pháo song song đều nhau là 50 cái lơm tṛn nhỏ, với thuốc pháo có chất lưu huỳnh trong đó. Hai hiệu pháo nầy rất nhạy, nổ ḍn lớn tiếng lại tan xác thành từng mảnh nhỏ như pháo của Hong-Kong.
Đặc biệt dọc theo giữa con đường ngang trước rạp hát Vĩnh Lợi, nhiều gian hàng căng dù che và trải những chiếc đệm thật lớn san sát bên nhau, bày bán hàng núi dưa hấu được phân loại lớn nhỏ, chất đống có thứ tự theo h́nh chóp nón trông thật đẹp mắt. Một vài trái dưa bị bể ḷi ruột đỏ au nằm lăn lóc một góc trên mặt đất, bên cạnh một tấm thớt nhỏ với cây dao sắc bén dài bảng lớn. Thỉnh thoảng, người chủ hàng xẻ một trái dưa to thật ngon ra làm 10 đến 12 miếng đều đặn h́nh bán nguyệt, rồi sắp đứng trên một cái mâm nhôm theo h́nh tṛn bên cạnh một dĩa muối và con dao nhỏ, để cho người nhà vác lên một bên vai đi bán dạo ṿng khắp chợ. Dĩ nhiên, dưa bán lẻ từng miếng nhỏ có lời nhiều hơn là bán nguyên trái. Những người có tiền, hay khách hàng mua đi bán lại mua trên chục trái th́ giá tiền lại càng rẻ hơn. Loại dưa thời bấy giờ chỉ có vỏ màu xanh lá cây đậm bóng láng và chỉ xuất hiện trong mùa Tết, chớ không có sọc xanh trắng như ngày nay có quanh năm. Cũng nơi khu vực nầy trên vỉa hè trước rạp hát Vĩnh Lợi, những ṣng “bầu cua cá cọp” bất hợp pháp được đám con nít say mê bao quanh, trước lệnh chỉ cho phép chơi trong ba ngày đầu năm.
Mấy tên lưu manh cờ gian bạc lận thừa cơ hội cho đồng bọn làm c̣ mồi, để chiêu dụ ăn tiền những người nhẹ dạ dễ tin một cách vô lương tâm, bằng tṛ chơi xảo thuật tráo bài ba lá. Mà khổ nỗi nạn nhân thua bạc đáng thương, lại có những người đàn bà bán rau cải, trái cây. Ban đêm họ trải chiếu, giăng mùng đơn sơ ngủ bờ ngủ bụi dưới mái hiên những tiệm buôn dọc theo phố để qua đêm, chờ sáng sớm hôm sau mối lái từ trong vườn mang hàng ra mua rồi bán tiếp. Có bà v́ quá mê tṛ đỏ đen, nên bị thua sạch số tiền làm vốn buôn bán mà mặt mày thất sắc, xanh lét không biết tính sao trông thật tội nghiệp. Mặc dù mấy ông cảnh sát chợ thỉnh thoảng có đi tuần bố ráp các ṣng cờ bạc. Nhưng khi ông C̣ đi rồi th́ nhóm phần tử xấu nầy lại vân tập trở lại, với hai con mắt “phía sau” để lừa bịp thiên hạ.
Mỗi năm khi có chợ đêm, giới trẻ rất thích thú được dịp hẹn nhau đi dạo rong chơi, c̣n những người có gia đ́nh th́ t́m thấy được phần nào không khí mùa Xuân sắp đến, qua sự mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết. Chợ đêm được kéo dài đến chừng 11 giờ th́ vắng vẻ người đi. Lác đác đâu đó, người ta nghe được những tiếng pháo nổ đ́ đùng, mà lẽ ra lệnh cho đốt pháo được cho phép; kể từ chiều 30 Tết cho đến trễ lắm là hết ngày mùng 10.
Nhắc tới chợ Tết là phải kể đến chợ hoa, mà chợ hoa ở thành phố lớn nhỏ nào cũng có. Mỹ-Tho th́ nhóm ở ngoài vườn hoa Lạc-Hồng. Đoạn đường dài khoảng hơn 100 mét từ góc đường Trưng Trắc cho đến Ty Bưu Điện, được ngăn lại cấm xe lưu thông kể từ ngày 20 tháng chạp. Nơi đây bày bán đầy cả một rừng hoa với đủ mọi chủng loại như: cúc, huệ, mồng gà đỏ, vàng, trắng, tím, nhất là mai vàng và vạn thọ được người mua chiếu cố nhiều nhất! Ngoài bông hoa c̣n có kiểng như tùng, đặc biệt để chỉ sự sung túc th́ có kim quít sai đầy trái vàng tươi.
Chợ hoa tấp nập nhất là vào buổi xế chiều trời mát cho đến tối, với ḍng người nhộn nhịp mà phần đông là phụ nữ. Hàng ngàn chậu hoa đẹp ngũ sắc thuộc nhiều chủng loại, được sắp đầy tua tủa dưới mặt lộ để cho người mua tha hồ chọn lựa ngă giá. Nhiều nhánh mai vàng lớn nhỏ được người bán giơ cao lên để chào hàng. Có những cành mai chưa ra giêng th́ đă nở rộ nên được bán với giá rẻ. C̣n giới người Hoa bán tiệm trong chợ thường chuộng những gốc mai thật to đắt tiền, có nhiều nhánh bung x̣e ra như cánh quạt, để gắn lên đó nhiều thiệp chúc Tết màu đại hồng, của người cùng trong ngành thương mại gởi tặng.
Thường th́ chợ hoa náo nhiệt và bán đắt nhất vào mấy ngày cận Tết. Một số người v́ hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nên đợi cho đến chiều 30 Tết mới đi mua hoa về chưng bày trong nhà, v́ giờ nầy chợ hoa đă thu dẹp rất nhiều và thưa thớt thấy rơ, người bán th́ bán tháo bán đổ để lo về nhà đón Giao-Thừa, người mua được dịp mua hoa rẻ mà vẫn ăn Tết vui vẻ trong ba ngày Xuân.
Những ai có đi Chợ Mỹ-Tho vào buổi sáng 30 Tết th́ đă biết, trên bốn đoạn đường ngắn bao xung quanh nhà lồng chợ, rừng người chen lấn chật cứng như nêm chưa từng thấy chỉ có thể nhích đi từ bước, t́nh trạng móc túi cũng thừa cơ hội nảy sinh ra không ít, v́ sau Tết mấy ngày, chợ mới buôn bán trở lại b́nh thường, nên thiên hạ cần mua thêm nhiều nhu yếu phẩm dự trữ. Chừng 2 giờ chiều, chợ bắt đầu thưa người, từ bạn hàng trong nhà lồng chợ đến những người buôn bán bên ngoài đều đóng cửa, dọn dẹp về nhà lo chuẩn bị đón Giao Thừa. Xe chữa lửa của Sở Pḥng Hỏa Cứu Hỏa bắt đầu tiến vào chợ cá ở bờ sông để rửa chợ cuối năm ăn Tết. Tất cả tiệm buôn tại chợ Mỹ-Tho đều ngưng thương măi, phấn khởi làm tổng vệ sinh xách nước lau bàn, rửa ghế, chùi tủ, quét dọn nền nhà cửa sắt, đánh bóng lư hương tỉ mỉ để đón mừng Năm Mới.
Mùng một Tết, chợ Mỹ-Tho hoàn toàn ngưng hoạt động. Nhan nhản ở những góc phố, nhiều chiếc xe hủ tiếu, nước đá bán đắt như tôm tươi mà phần đông khách của họ là trẻ em mặc áo quần mới, mặt mày hớn hở vui vẻ v́ trong túi có được nhiều tiền ĺ x́ mới toanh. Qua ngày mùng hai, chỉ có một số ít người bán rau cải dọc theo chợ cá. Đến mùng ba, mùng bốn th́ quang cảnh chợ đông đúc thêm, nhà lồng chợ bắt đầu mở cửa, nhưng các sạp bên trong bán vẫn c̣n rất ít. Đến ngày mùng năm, mùng sáu, đa số tiệm buôn bán tại chợ đă khai trương hơn một nửa và đến ngày mùng mười th́ chợ nhóm trở lại b́nh thường.
Thời gian thấm thoát qua mau … Mới đây mà đă gần 40 năm dài xa Việt-Nam. Nhiều lần về thăm quê nhà, trở lại thành phố Mỹ-Tho thân yêu, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Những lúc rỗi rảnh, tôi thường yêu cầu thân nhân chở đi ṿng quanh khắp mọi nẻo đường lớn nhỏ để t́m lại dấu chân của ḿnh năm xưa. Đi đến đâu, tôi cũng đều có cảm tưởng như đang phảng phất ít nhiều kỷ niệm của một thời thanh xuân đầy hoa mộng, không khỏi khiến tâm tư bồi hồi xao xuyến.
Khi xe chạy ngang đại lộ Hùng Vương góc đường Ngô-Quyền, ngôi Trường “tà áo dài“ rất dễ thương Lê Ngọc-Hân bên nầy, đối diện gần đó là trường Nguyễn Đ́nh-Chiểu, mà ngày xưa tôi đă một thời theo học và ái mộ nhất! Quẹo trái sang đường Lê Đại-Hành th́ nhà cửa, tiệm buôn đă hoàn toàn khác hơn xưa. Đến cuối đường rẽ sang phải là ngôi chợ hai tầng mới được xây cất sau nầy, mà bên trong rất ít người mua. Từ chợ cá đến những con đường xung quanh nhà lồng, chợ nhóm rất thưa thớt khác hẳn thời trước, người bán nhiều mà người mua th́ lại quá ít. T́nh thiệt mà nói, trầm ngâm đứng nh́n ngôi chợ “thiếu thiện cảm“ nầy, tâm trí tôi không khỏi liên tưởng đến h́nh ảnh ngôi chợ cũ thân thương đầy kỷ niệm với gia đ́nh ba mẹ tôi đă một thời vang bóng: chợ Mỹ-Tho.
Tiểu-Minh
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 2 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.