Tập 'Quân sử Không Quân' trang 199 ghi lại: 'Về Không quân VNCH ngoài một số nhỏ quân nhân và gia đ́nh được di tản bằng phi cơ C130, C141 của KQHK từ ngày 20/4, đa số c̣n lại chỉ di tản sau ngày 28/4/1975, khi Bộ Tư lệnh KQ không c̣n hoạt động theo đúng chức năng của một Bộ Tư lệnh nữa..
Số lượng phi cơ của KQVN bay thoát được sang Utapao, Thái Lan, do các tác giả đưa ra, không thống nhất, theo Robert Miskesh trong 'Flying Dragons: the South Vietnamese Air Force th́ tổng cộng vào khoảng 132 chiếc, gồm khoảng 25 F5, 27 A37, 11 A1, 13 C47, 6 C130, 3 AC 119, 5 C7 và 45 UH1., trong khi đó Wayne Muntza, trong The A-1 Skyraider in Viet Nam: The Spad's Last War, và Ralph Wetterhahn trong 'Escape to Itupao th́ con số máy bay được cho là 165 chiếc. thêm vào đo là các U-17 và O-1, ngoài ra không kể vài phi cơ dân sự của Air VN..
Cũng vào ngày cuối cùng, một số trực thăng đă bay ra đáp xuống các chiến hạm của HQHK, con số này được ước lượng là khoảng 100 chiếc, đa số là UH1 và CH47..Cũng có những chiếc tuy bay được ra biển nhưng do trục trặc kỹ thuật, hoặc hết nhiên liệu đă rớt xuống biển..Con số này được ước lượng là khoảng 18 chiếc..'
37 năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, các tài liệu quân sự được giải mật và những bài hồi kư, bút kư của nhiều tác giả trong cuộc đă giúp 'vẽ lại' toàn cảnh (tuy có thể chưa hoàn toàn chính xác) về cuộc di tản..hay đúng hơn là 'tự tan hàng' của KQVNCH.
Cuộc di tản chiến thuật, rút bỏ Quân Đoàn 2, ngày 6 tháng 3 năm 1975 đă bỏ lại tại Pleiku 64 phi cơ các loại.
Ngày Quân Đoàn 1 tan hàng tại Đà Nẵng (30 tháng 3, 1975), 180 phi cơ đă bị bỏ lại.. trong số này có 33 phi cơ vận tải C-7 Caribou đang bị đ́nh động c̣n bọc kin trong bao tồn trữ..
Trong những tháng cuối củng của cuộc chiến, khả năng chiến đău của KQ VNCH càng ngày càng bị giơi hạn do không c̣n một Hệ thống chỉ huy và kiểm soát hữu hiệu. KQ VNCH không có những phi cơ trang bị hệ thống chỉ huy, dẫn đạo không trợ bay trên vùng cần yểm trợ hành quân (theo phương pháp của KQ HK, dùng các C-130 làm trạm chỉ huy trên vùng). Trong khi đó sự kiện bị mất các Đài Kiểm báo và Không trợ như Trung Tâm CRC (Combat Report Center) Panama Đà Nẵng, các Trạm CRP (Combat Report Point) Peacock PleiKu, Pyramid Ban Mê Thuột..đă khiến Hệ thống Kiểm Báo Chiến Thuật trở thành tê liệt, vô hiệu.. Tuy Trung Tâm CRC Tân Sơn Nhất vẫn c̣n hoạt động nhưng nhiệm vụ chinh lại..không phải là để điều hành cac phi vụ yểm trợ chiến trường, hoặc hương dẫn oanh tạc các mục tiêu dươi đất.. Các phi vụ oanh tạc tùy thuộc vào các phi cơ Quan sát FAC (Forward Air Controller= Điều không tiền tuyến) và tùy phi công có mặt trên vùng..nhận định mục tiêu bằng mắt thường..
Vào thời điểm của Trận Xuân Lộc: KQVNCH c̣n 1492 phi cơ các loại, trong đó có 976 chiếc hoạt động được, 135 chiếc hư hỏng không bay được và 381 chiếc kể như phế thải..Lực lượng phi cơ chiến đấu gồm 169 chiếc A-37 (trong đó 92 chiếc khả dụng) và 109 F-5s (93 chiếc khả dụng).
Những phi vụ hành quân cuối cùng của KQ VNCH trên không phận Sài G̣n:
Trong những ngày cuối cùng của VNCH, KQVN vẫn c̣n hoạt động vơi một số phi vụ yểm trợ bộ binh và chống pháo kích. Đ/úy Phi công Trần văn Phúc PĐ 518 ghi nhận một số phi xuất trong những ngày 28 và 29 tháng 4 như:
PĐ 518 với Phi vụ Phi Long 51 do một phi tuần gồm 2 Skyraiders..(một do Đ/u Phúc và 1 do Th/tá Trương Phùng) bay vào sáng 29/4. Phi cơ của Th/tá Phùng bị pḥng không BV bắn hạ. Ông đáp xuống ruộng gần cầu B́nh Điền, bị bắt và sau đó bị CQ hành quyết vào ngày 30 tháng 4.
PĐ 514 với một phi tuần 2 Skyraiders cất cánh từ Cần Thơ để bay trên không phận Sài g̣n vào sáng 29..do các Th/tá Hồ ngọc Ân và Đ/u Nguyễn Tiến Thụy điều khiển.
Những phi vụ Tinh Long của các AC-119 như Tinh Long 06, Tinh Long 07..
Tinh Long 07 (sáng 29) do Tr/u Trang văn Thành điều khiển đă bị SA-7 của CQ bắn hạ, phi cơ gẫy làm đôi và rơi ngày tại ṿng đai phi trường.. Phi hành đoàn gồm 9 người, 8 hy sinh ngoại trừ nhân viên nhảy dù thoát được.
Theo Đ/u Phúc 'ngoài Tinh Long 07, c̣n có thể c̣ thêm 2 AC 119 khác bị bắn hạ (?) (một rơi tại đường Ngô Quyền, và một rơi tại Tân Tạo..).
Sáng 30 tháng 4, một phi xuất A-37 (PĐ 526) từ Cần Thơ, phối hợp với O-1 (PĐ112) từ Đồng Tâm..bay yểm trợ khu vực Hoàng Hoa Thám ngay trước giờ DV Minh tuyên bố đầu hàng..(A-37 do Tr/u Nguyễn Mạnh Dũng điều khiển); (O-1 do Đ/u Mai Tri Dung). Đây có thể là phi vụ hành quân cuối cùng của KQ VNCH..
(Xin xem bài: Những Phi vụ hành quân sau cùng của KQ VNCH, của Trần Lư)
Những giờ phút cuối cùng tại Bộ Tư lệnh KQVNCH
Chiều 28 tháng 4, CSBV đă dùng 4 A-37 (lấy được, từ Phan Rang) oanh kich Phi trường TSN, gây tổn hại cho 3 chiếc C-119 và nhiều C-47.
Tối 28 tháng 4: một sự kiện 'kỳ lạ' đầy bí ẩn đă xẩy ra tại TSN: Tác giả Thiên Lôi Ngô Đưc Cửu trong 'Chuyện 30 năm trước' (website bgkq.net/hoiky) ghi lại như sau:
..'8 giờ tối 28 tháng 4 năm 1975..tôi trở về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải, nơi tạm trú của 3 Phi đoàn 524, 534 và 548 di tản từ các căn cứ về..Bước xuống xe, tôi thấy các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A-37 trang bị đầy bom đạn từ trong ṿm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước, cách ụ 50 feet. Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi cơ khỏi ụ ? Anh ta trả lời:theo lệnh Trung tá kỹ thuật và Bộ CH Hành quân..Tôi vào pḥng trong ụ, nhắc điện thoại gọi TT Hành quân, th́ sĩ quan trực cho biết h́nh như lệnh của Bộ Tư lệnh KQ hay..Bộ TTM..ǵ đó ? Tôi hỏi:Anh có biêt là hồi chiều phi đạo 07 vừa bị dội bom không ?..Tôi liên lạc với Đ/tá Ước, nhưng không được..Trở lại băi đậu,tôi yêu cầu Trưởng phi đạo di chuyển phi cơ trở lại ụ, nhưng không được..
Tôi tự hào trong hàng ngũ phi công khu trục KL VNCH, nhất là KĐ 92 có các PĐ 524, 534, 548 cho đến giờ phút này: 22 giờ 18 tối 28 tháng 4 tât cả phi công đều có mặt ứng chiến, không thiếu một ai.
Suốt đêm tất cả anh em 3 phi đoàn chờ đợi, điều động cất cánh..nhưng tuyệt nhiên không một tiếng điện thoại reo..
Nửa đêm VC bắt đầu..pháo kích.. và hơn 50 chục A-37..bị phá hủy.. Giờ đây hơn trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư?
6 giờ 15 sáng 29, tât cả phi công lên xe chạy về Bộ Chỉ huy KĐ 33..Đ/tá Thảo chạy vào rồi chạy trở ra..Đến nơi các pḥng vắng lặng, không c̣n ai cả..Trở lại sân cờ KĐ 33, Đ/tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tự t́m lấy phương tiện di tản..
Mọi người xuống xe, nhưng chạy về đâu bây giờ ? Tan hàng, nghe thảm thiết quá. Một trong những đơn vị chiến đấu kiên cường nhất của QL VNCH, giờ đang bị bó tay. Lệnh ai sắp hàng ngang trên 50 chiếc A-37, cánh liền cánh, xăng nhớt, bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt ? Nếu không cho chúng tôi chiến đấu th́ cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi ṿng đai đang bủa quanh phi trường chứ ? Chúng tôi đâu có..ră ngũ ?..'
Sự kiện phi cơ bị 'tự hủy'(?) này cũng được ghi nhận trong 'Can trường trong Chiến bại' của Tướng Hải Quân Hồ văn Kỳ Thoại, trang 306-307' như sau:
'Tới đêm 28 tháng 4, tại căn cứ Duyên đoàn ở Vũng Tàu, một sĩ quan KQ cấp tá xin vào gặp tôi và cho biết có một số trực thăng đang đậu tại Vũng Tàu.. có Tướng Huỳnh Bá Tính, Sư đoàn trưởng SĐ 3 KQ muốn đến gặp tôi, cần tŕnh bầy một sự kiện quan trọng..
Tương Tinh vào căn cứ duyên đoàn gặp tôi và các tướng lănh khác (Nguyễn duy Hinh, Trần văn Nhựt..).. kể chuyện xẩy ra, rất bi thảm Ông không biết lịnh từ đâu..bỗng nhiên một số phi cơ phát nổ, sau đó được biết có lệnh của Saigon..cho phá hủy các phi cơ của KQ ?
Tướng Tính phân vân..không muốn về tŕnh diện Bộ TLKQ..khi ông chưa biết ai ra lệnh hủy phi cơ thuộc SĐ của ông ? Chúng tôi thuyết phục ông Tính liên lạc trực tiếp với Tướng Minh TL KQ..
Trong đêm 28, rạng sáng 29 tháng 4 CQ bắt đầu pháo kích vào Phi trường TSN phá hủy nhiều phi cơ..
Khoảng 8 giờ sáng, Tướng Phan Phụng Tiên, Sư đoàn trưởng SĐ5 KQ, đến gặp Tướng Minh, và sau đó bỏ đi.
10 giờ 30 phút sáng 29 tháng 4, sau khi họp riêng vơi Tướng Minh Tư lệnh KQVN, Tướng Nguyễn Cao Kỳ (không có một chức vụ chính thức nào trong Chính Phủ cũng như trong Quân lực VNCH), bay trực thăng riêng về Bộ TTM..Thấy không c̣n ai.. Tướng Kỳ gặp Tướng Ngô Quang Trưởng..ngồi không nên rủ Ông Trưởng cùng lên trực thăng, theo đoàn tùy tùng bay ra USS Midway đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu.
Khoảng 11 giờ, Trung tướng Nguyễn văn Mạnh Cựu TMT Liên quân cùng với Trung tướng Dư Quốc Đống vào gặp Tướng Minh.. Sau khi chờ không thấy HK liên lạc như đă dự trù, Tướng Minh cùng các Tướng Tá Bộ binh và KQ tùy tùng đă di chuyển sang DAO để chờ di tản..
Kể từ 1 giờ trưa: Trung Tâm Hành quân KQ kể như bỏ trống. Các Phi đoàn trưởng..ra lệnh tự tan tan hàng..phi công bay đi đâu hoặc chạy đâu, tự ư quyết định..
Riêng SĐ 4 KQ tại Trà Nóc Cần Thơ, c̣n hoạt động (cho đến sáng 30/4 một số phi vụ vẫn từ Cần Thơ bay lên yểm trợ chiến trường quanh Sài G̣n) và Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, Sư đoàn trưởng có thể được xem là vị Tư lệnh sau cùng của KQ VNCH (?)
Trong bài bút kư 'Giây phút nát ḷng' (Lư Tưởng Tháng 4/2002) Tác giả Không Quân Liệt Lăo, Chỉ huy trưởng Pḥng vệ BTLKQ đă kể lại những giây phút tan hàng tại Tân Sơn Nhất với những đoạn tạm trích như sau:
..' tôi lên tŕnh diện Tư lệnh bộ, toan phúc tŕnh t́nh h́nh pḥng thủ, nhưng chẳng ai bận tâm. Người người nh́n nhau đăm chiêu dường như trong thâm tâm ai cũng muốn buông rơi tât cả..Ai cũng thần sắc không c̣n, dũng khí tiêu tan như 'đại bàng xệ cánh'..'Tôi trông chờ một lệnh họp khẩn cấp, duyệt xét t́nh h́nh chung, lấy quyết định tối hậu 'Chiến' hay 'lui' Chiến th́ chiến ra sao ? Lùi th́ lùi thế nào ? Có tuần tự, trước sau, không bỏ một ai hay hỗn loạn..mạnh ai nấy chuồn ?.. Tôi chờ lệnh, nhưng không có lệnh ?
Bài viết có thêm những chi tiết di tản của một số Tướng KQ và BB như:
..' Tôi đưa tay chào nghiêm túc theo quân cách, Cửu Long (danh hiệu của Tường Minh, Tư lệnh KQ), chào trả, ngập ngừng chân bước, ái ngại nh́n tôi và đột nhiên dứt khoát:
Toa ở lại, đi sau với Lành (Tương Vơ Xuân Lành) nghe..
..' Tôi mỉm cười, quay bước vào pḥng t́nh h́nh, lúc này chỉ c̣n Ông Linh, ông Lành, ông Lượng đă đi đâu lúc nào tôi không biết. Được một lúc khoảng 10 giờ ǵ đó, Ông Ươc (Đ ta Vũ văn Ươc) đáp trực thăng trên sân banh, chạy vội vào gặp ông Lành, xong cùng ông Lành trở ra, kéo luôn theo tôi, miệng nói:
Đi mày..
Tôi nh́n Lành, quay qua hỏi Ươc: Đi dâu ?
Qua Tổng Tham mưu xem t́mh h́nh ra sao ?
Ước nói và nắm tay tôi..lôi đi..Tôi, Ước, Linh lên trực thăng qua đáp tại sân cờ trươc tiền đ́nh Bộ TTM.Linh, Ươc chạy lên văn pḥng TTM trưởng..Tôi không theo..
Đảo mắt chỗ khác thấy trực thăng Tương Kỳ. Đàn em trước kia của tôi hiện là cận vệ ông Kỳ, vội từ trực thăng nhảy xuống chạy đến tôi nói nhỏ: Trực thăng sẽ bay ra Blue Ridge.. ông hảy lên, cùng đi..Tôi hỏi: Tương đâu ?- Họp trên văn pḥng TTM Trưởng..
Tôi bước lại trực thăng, nh́n vào..thây Hà Xuân Vịnh (Đ tá) ngồi trên đó từ hồi nào..Tôi leo lên ngồi cạnh.. Đang miên man suy nghĩ cho mạt vận của đất nước, mạt kiếp của ḿnh th́ ông Linh từ bộ TTM chạy ra một ḿnh đến bên trực thăng có tôi và Vịnh đang ngồi đăm chiêu, mỗi người một ư nghĩ..Linh cứ loanh quanh ở dưới chẵng chịu bước lên cùng chúng tôi. Tôi vội leo xuống, lại gần Linh nhỏ to:' Linh, Kỳ sẽ rút ra Đệ Thât hạm đội. Hảy lên, cùng đi. Hết cách thôi..'
Linh có điều ǵ bất ưng, nhất định không lên tàu..Tôi hỏi: Sao ? Linh nói: thiếu ǵ máy bay..Tôi vội báo động: Máy bay nào ?, c̣n duy nhất chiếc này thôi. 'Chiếc kia ḱa', Linh vừa nói vừa chỉ tay về chiếc trực thăng mà tôi, Ươc và Linh vừa đáp hồi nẫy..'Tàu c̣n đó, hoa tiêu bỏ đi rồi..'Tôi nói vơi Linh v́ thấy họ phóng jeep ra khỏi TTM...
Linh nhất định không lên tàu..tôi đành ở lại bên anh..
Tôi c̣n đang phân vân bàn thảo vơi Linh những bước kế tiếp, th́ ông Kỳ, từ đại sảnh bộ TTM bước ra, hướng về trực thăng, dẫn theo số đông tương lănh bay đi cùng Ươc..để lại tôi và Linh tự quyết định lấy phận ḿnh..
Tôi và Linh, đồng thời cả Đặng Duy Lạc (KĐ trưởng KĐ 62) không biết từ đâu chui ra, gọi QC/TTM yêu cầu hộ tống chúng tôi về lại Bộ TL KQ.. Xe rồ máy phóng đi trực chỉ cổng Phi Long..
Tinh cầu trên vai, Linh cho lệnh mở cửa..Quân ta phớt tỉnh..không nghe. Đặng Duy Lạc ngồi yên như khúc gỗ..T́nh h́nh thực gây cấn.
Thấy ông Linh hết 'linh', tôi bước xuống xe tiến thẳng đến chỗ anh KQ bất tuân thượng lệnh, điềm đạm ra lệnh..mở cỗng. Anh liu riu vâng lời..
Chúng tôi vào Bộ Tư lệnh KQ gặp ông Lành..
Niềm tự hào của KQ đang ở chỗ này: Tương Lành, trước thế quân tan vỡ, quân binh đang đua nhau bỏ ngũ, ông vẫn trầm tĩnh, kiên tŕ thủ đài Chỉ huy Hành quân Chiến cuộc KQ. Ông giữ vững liên lạc vơi SĐ 4 KQ, SĐ KQ duy nhất c̣n hăng say chiến đấu trong khi nhiều đơn vị đă tự ngừng nghỉ.
Ông Linh tóm lược t́nh h́nh bên Bộ TTM cho ông Lành rơ..ông đề nghị rút khỏi Tân Sơn Nhưt..Tướng Lành, nói vơi Linh trươc sự hiện diện của tôi và Đặng Duy Lạc:
Moa chưa có lệnh..
Ông vẫn đợi lệnh.. phải chúng tôi vẫn đợi, vẫn chờ..nhưng chờ lệnh ai đây ?. Mọi người đă bỏ đi cả rồi, tội cho ông Lành vẫn ngồi chờ lệnh..mà lệnh của ai đây ? Tôi buột miệng:
Ông chờ lệnh ai ? c̣n ai đây nữa mà ra lệnh cho ḿnh?
Ông Lành trầm ngâm không nói, chúng tôi lặng yên chờ..(lại chờ) quyết định của ông, chợt Tướng Lê quang Lưỡng (Nhảy dù) xịch jeep đến, thấy tụi này c̣n đương nh́n nhau, hỏi:
Tụi toa định làm ǵ đây ?
Ông Lành ngượng nghịu chưa biết phải nói sao cho đỡ khó nói? Tôi nh́n thẳng Tương dù nói nhanh:
Tụi này zulu dây. Ông có theo th́ cùng đi ?
Zulu ? zulu bỏ mây đứa con (ư nói quân dù) lang thang..sao đành ?
Ông Lành hỏi:
Toa c̣n mấy đứa con ?
Sáu đứa chung quanh Đô thành..
Lúc này trực thăng TQLC Mỹ đổ bộ và bốc người loạn cào cào trên không phận SàiG̣n..
Tôi đỡ lời ông Lành:
Tân sơn Nhất không giữ được..KQ chúng tôi phải rút khỏi tầm pháo địch trước đă..
Ông Lưỡng vội hỏi: Tụi toa định rút đi đâu ?
Tôi nhanh nhẩu: Có thể vùng 4..có thể đi luôn..
Chờ moa một chút, cho moa về thu xếp với mấy đứa con cái đă..
Nói xong, ông Lưỡng lên xe jeep về Sư đoàn Dù..
Trong khi chờ Tương Dù trở lại, các sĩ quan cấp Không đoàn và Tham mưu Bộ Tư lệnh KQ hiện diện cùng vơi một số binh sĩ thuộc Tổng hành dinh KQ vội tập họp quanh chúng tôi tại tiền đ́nh Bộ TL..bao quanh, nghe ngóng t́nh h́nh..Tôi nói thẳng:
Dưới áp lực của pháo Cộng, Bộ TLKQ buộc phải rút khỏi đây..Ai muốn đi theo, hăy sẵn sàng..Kể từ giờ phút này, các anh không c̣n trách nhiệm ǵ với KQ nữa..Các anh có thể rời đơn vị lo cho sự an nguy của vợ con càng sơm càng tốt..
Cùng trong lúc đó, Tướng Dù đă trở lại. Chúng tôi thảo luận kế rút đi. Khi xét kỹ lại trong chúng tôi..không ai là hoa tiêu vận tải. Tướng Lành, Thảo nâu, Duy Lạc..đều là hoa tiêu phóng pháo. Ông Linh đề nghị qua DAO.. Tôi hỏi nhỏ ông Linh: SĐ 5 KQ th́ sao ?..Các hoa tiêu đă tự ư rút cả rồi..Linh thở dài trả lời..Sau phút suy tính, vị chỉ huy đoạn hậu BTLKQ cho lệnh rút..Tất cả lên 3 jeep trực chỉ DAO.
Tới cổng DAO, một dân sự Mẽo, mặc áo giáp, M17 cầm tay chặn lại:
Generals only.. Y hách dịch ra lệnh..
Hai Tướng KQ, một Tương Dù bước vào trong hàng rào kẽm gai.. Tôi lắc đầu quay ra, tự tay gỡ kẽm gai bước khỏi vùng phân ranh Mỹ-Việt.
Anh Mẽo gác cửa chẳng hiểu tại sao cái anh phi hành đă vào rồi lại bỏ ra..khi nhiều người muốn vào lại không được..
Tác giả sau đó, cùng một số sĩ quan cấp Tá quay lại BTL KQ để t́m phương cách khác tự di tản..
(Ghi chú: Danh sách một số Tướng, Tá và chức vụ tại Bộ TLKQ, trong những ngày cuối cùng của VNCH
Trung Tướng Trần văn Minh, Tư lệnh KQVN
Thiếu Tướng Vơ Xuân Lành: Tư lệnh phó
Chuẩn Tướng Vơ Dinh: TM Trưởng
Ch/Tướng Đặng Đ́nh Linh:TM Phó Kỹ thuật/Tiếp vận
Bác sĩ Phạm gia Lữ trong bài 'Tân sơn Nhất trong giờ hấp hối' (Lư Tưởng, tháng 4/2002) kể lại một số diễn biến tại Trung Tâm Y Khoa KQ..với nhiều tiết khá..chua chát của một đơn vị..hầu như bị..bỏ quên ?
..'chiều thứ hai 28 tháng tư..lệnh giới nghiêm 24/24 bắt đầu, cổng Phi Long đóng cửa..Phi trường TSN vừa bị A-37 oanh kích trước đó..
Khoảng nửa đêm, Th/t L. nhào vào bô bô nói: T́nh h́nh thế này mà các cậu ngủ được th́ lạ thật. Đàn anh biến đi đâu hết rồi.(hắn ám chỉ các anh lớn của KQ)..họ đang lập cầu không vận đi Côn sơn kia ḱa.. SĐ5 KQ đang tổ chức di tản cho thân nhân binh sĩ thuộc SĐ đi Côn sơn..
Đêm 28, CQ pháo kich vào phi trường..gây thiệt hại cho nhiều máy bay..
..Khoảng 7 giờ sáng. (29/4) trong lúc quanh quẩn tại BCHHKQ, tôi gặp Đ/tá H Giám đốc Trường Chỉ huy và Tham mưu Trung cấp KQ trước cửa văn pḥng ông, vẻ buồn bă lộ trên nét mặt..tuy thuộc cấp chỉ huy nhưng không cổ cánh, máy bay không có trong tay, nên cũng chẳng xoay sở ǵ được.. Đ/tá Th. Chỉ huy trưởng Trung Tâm Kiểm báo, cũng là người rất kỷ luật, cứ nằm lỳ trong đơn vị để làm gương cho thuộc cấp nên cũng bị kẹt trong cơn hấp hối của TSN..
Khoảng 10 giờ..cùng Th/t Vũ BH thuộc trường CH/TM..chúng tôi cùng lái xe..đi thăm t́nh h́nh..Trên đường chạy ra Phi đạo, một dẫy dài xe hơi bỏ trống, nối dài từ cửa chính vào văn pḥng Tư lệnh ra đến ngoài đường..
Tôi gặp chiếc falcon màu vàng nhạt của Th/t Khoa (đen), vẫy tay ra hiệu cho anh ngưng lại và hỏi: Đi đâu bây giờ ?'. Khoa trả lời vắn tắt: Theo moa...'Vừa khỏi ṿng rào BTL, Kh quẹo phải rồi quẹo trái, th́ ra anh ở nhà cũ của LCK, sau khi vợ con hành lư lên xe, chúng tôi nối đuôi nhau trở ra phi đạo. Trạm canh ra phi đạo không c̣n quân cảnh canh gác..'
Bay đi Utapao:
Để thoát khỏi Việt Nam, các phi cơ vận tải, phản lực..nếu đủ nhiên liệu có thể tự bay sang Singapore ( 590 miles về phia Tây-Nam) hoặc gần hơn là sang Utapao (Thái Lan) (350 miles phia Tây-Bắc). Đa số các phi cơ vận tải và phản lực đă chọn Utapao, chỉ một số rất ít C-130 bay đến Singapore..
Bài viết chinh thức về cuộc di tản của các phi cơ VNCH đến Utapao trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến VN:Escape to Utapao của Tác giả Ralph Westerhaan đă được đăng trên Tập san Air and Space/ Smithsonian Số Dec-Jan 1997.
..' Vài ngày trước khi xẩy ra cuộc di tản của KQVNCH ra khỏi Sài gon, Tương KQ HK Harry Aderholt, Chỉ huy trưởng Phái bộ Quân viện HK tại Thái Lan (MAC-Thai) đă gửi Đại úy KQ Roger L YoungBlood bay đến Phi trường Trat, nằm sát biên giới Thái-Miên. Bay trên một chiếc phi cơ AU-23 của Không lực Thái (AU -23 là một phi cơ cải biến từ loại Pilatus PC-6, có khả năng đáp được xuống những phi đạo thật ngắn) YoungBlood bay ṿng ṿng trên không phận Thái cùng một phi công phụ VNCH. Phi công phụ này giữ tần số vô tuyến và hướng dẫn các phi cơ VN bay về Utapao..'
Skyraiders A-1:
11 chiếc Skyraiders đă đến được Utapao, gồm 5 A-1E, một A-1G và 5 A-1H. Trong số này 7 chiếc thuộc Phi đoàn 514, 3 chiếc thuộc PĐ 518 và một thuộc PĐ 530:
Chiếc Skyraider A-1H, số hiệu 139606 thuộc PĐ 518 là chiếc Skyraider sau cùng bay khỏi VN đến Utapao, phi công đă chở cả gia đ́nh'nêm' chật cứng trong pḥng lái (danh từ lóng của KQ Mỹ gọi đây là một hell hole).
Trên một chiếc A-1E, phi công (Th/tá Hồ văn Hiển PD 514) đă cất cánh, chở theo 15 người, nhét cứng trong..'blue room'.. Tác giả Phi Long 51 trong bài 'Chuyến bay định mệnh' (trên Diễn đàn Cánh thép) ghi lại:
..' Sáng 29..tôi trở lại Bộ chỉ huy Hành quân KQ sau 10 giờ và khám phá ra PĐ 518 đă cất cánh đi Cần Thơ. Tôi gặp Tr/tá NCP trong BCH và t́m phi cơ để đi..Do cơ trưởng Lợi huớng dẫn, chúng tôi t́m được một AD-5 (chiếc này có 2 chỗ ngồi lái và một pḥng trống khoảng 3x4x3 feet cao ở phía sau ghế pilot). Phi cơ trang bị đầy bom đạn..Sau khi thay b́nh điện, phi cơ rời ụ và tuy quá tải cũng cất cánh được, không liên lạc được với đài kiểm soát..Phi cơ bay đi Cần Thơ xin đáp nhưng bị từ chối..sau đó đành bay ra An Thới (Phú Quốc), thả bớt bom xuống biển..Tại An thới phi cơ được bỏ bớt đạn đại bác, tạm bị giữ, không cho cất cánh..Đến 10 giờ sáng, sau khi có lệnh đầu hàng, phi cơ bay đi Utapao.cũng vẫn vơi 15 người trên phi cơ..
Số Skyraiders bị bỏ lại là 40 chiếc, trong đó 26 chiếc bỏ lại ở TSN.
F-5s:
Trong số 26 chiếc F-5s bay thoát khỏi VN (gồm 22 chiếc F-5E và 4 chiếc F-5A/B), có 2 trường hợp đặc biệt được Anthony Tambini ghi lại trong F-5 Tigers over Việt Nam:
Một chiếc F-5F (loại 2 chỗ ngồi), đă chở theo 4 phi công trong 2 pḥng lái, bằng cách tháo bỏ các dù, hạ ghế xuống thấp hết mức, một phi công ngồi và phi công thứ nh́ đứng khom lưng đối mặt, lưng dựa vào cockpit.. Phi cơ cất cánh khi phi trường đang bị pháo kích: lúc đầu phi cơ định bay lên với hệ thống thắng để mở. Cảm nhận được t́nh h́nh không thể bay lên, phi công đă phải mở dù 'drag chute) để làm chậm vận tốc..sau đó đóng hệ thống thắng để phi cơ bay lên được và bay đi Thái Lan. Tuy nhiên, có lẽ hệ thống thắng đă bị hư hại khi bị pháo kích nên không c̣n sử dụng được..Phi cơ đáp xuống một phi dạo thô sơ và chật hẹp.. không ngừng được nên đâm vào cây và phát nổ, gây tử thương cho cả 4 phi công..(Các phi công tử nạn gồm các Th/tá Mai Tiến Đạt, Nguyễn Đức Toàn, Ngô văn Trung và Đ/u Lê Thiện Hữu..)
Một F-5A khác, cất cánh với 3 phi công, cất cánh ngược hướng bay, bay qua đầu các phi cơ đang đậu trên phi đạo chờ đến lượt bay lên..Phi cơ đến được Utapao..
Số F-5 bị bỏ lại gồm 87 chiếc, trong đó có 27 F-5E
A-37s:
Gần 50 chiếc A-37 đă bị hủy diệt trong đợt pháo kich đêm 28/4 (xem phần trên) và Đ/tá Thảo (KĐ trưởng KĐ 33) đă cho lệnh tan hàng vào khoảng 8 giờ sáng 29..
Th/tá Ngô đức Cửu, đón được một L-19 và về được Trà Nóc (Cần Thơ)..Tại đây ông tŕnh bày t́nh h́nh của Bộ Tư lệnh KQ Sàig̣n (bỏ ngỏ..) và hướng dẫn các PĐ A-37 c̣n lại bay đi Utapao:
..' từ B́nh Thủy đi Utapao, hướng 300, khoảng 45 phút là đến..Anh em nên lấy bản đồ ra kiểm soát lại..và ghi các chi tiết tần số tower..'
10 giờ sáng 30/4 khi có lệnh 'đâu hàng' Căn cứ B́nh Thủy cũng tự động tan hàng..Băi đậu phi cơ vắng lặng, không c̣n quân cảnh, không c̣n chuyên viên kỹ thuật..
..'tôi rất thán phục anh em A-37 Cần Thơ, có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là..lịch sự..Tôi lên tiếng v́ nhu cầu, tất cả hoa tiêu A-37 phải rời VN, anh em bắt cặp lấy, mỗi phi cơ phải đi được 3 người, không dù không hành lư..ngoại trừ Phi công bay ghế trái phải đội helmet để liên lạc..tất cả phi cơ phải bay ở 12 ngàn bộ, không cần dưỡng khí..'
Đa số phi cơ b́nh điện yếu, Th/tá Cửu và Th/tá Kim (Liên đoàn trưởng Kỹ thuật) đă dùng APU để khởi động từng phi cơ theo thứ tự..Thiếu tá Cửu lên chiếc sau cùng..rời phi đạo để cùng hợp đoàn gần 30 chiếc A-37 bay đi Utapao.
Đây có thể được xem là 'chuyến di tản' trật tự và 'thành công' nhất của KQ VNCH.
Ngoài ra, c̣n có một A-37 đáp xuống một xa lộ gần Căn cứ KQ Korat, phía Bắc Bangkok, gần một trường học, bom đạn c̣n đầy dưới cánh và Tướng Aderholt đă phải gửi một Đ/u phi công Mỹ đến để bay chiếc này về Căn cứ Udorn.
Theo thống kê 27 chiếc A-37 đến được Utapao..95 chiếc bị bỏ lại VN
Phi cơ vận tải:
Tân Sơn Nhất là căn cứ tập trung của nhiều Phi đoàn vận tải của KQVNCH..Cuộc di tản cũng rất hỗn loạn, nhiều phi cơ bị bỏ lại v́ không có phi công, không người đổ xăng..có những trường hợp phi cơ không cất cánh nổi do quá tải, hay do quá vội. Một số phi cơ vận tải đă bay được sang Utapao do đă ở sẵn tại Côn đảo, tất cả đều chở vượt quy định..có những C-47 bay đến Utapao với cả trăm hành khách (b́nh thường chỉ chở 30 binh sĩ)..bánh đáp bị găy khi chạm đất..
Phi công Hungphan trong bài hồi kư 'Những giờ phút sau Tinh Long 07' ghi lại: Sáng 29/04/75
..' đồng loạt không ai bảo ai, chúng tôi tháo chạy về phia Không đoàn bộ (PĐ 437), cạnh một bên là đại bản doanh của PĐ 435, chúng tôi đang ngơ ngác t́m nơi trú ẩn, th́ thấy ông PĐ trưởng Tr/tá MMC bước ra, nh́n chúng tôi lên tiếng..' giờ này pilot quư lắm, ai ở phi đoàn nào..về phi đoàn nấy..'chúng tôi im lặng rút sâu vào tầng dươi của SĐ bộ..thấy đủ mặt văn vơ bá quan.. TT Vinh con 435, TT Vinh Trô 437, TrT Dinh, Đ/u Chư..đă có mặt từ lúc nào ?..gần giống một cuộc họp của Không đoàn..
Không biết thời gian nặng nề, dai dẵng này kéo dài bao lâu, thỉnh thoảng như để phá tan bầu im lặng, tiếng pháo lại vang lên phía bên ngoài..bỗng nghe tiếng điện thoại reo vang trên lầu, rồi lại im lặng, tất cả mọi khuôn mặt không dấu vẻ lo lắng, đợi chờ..t́nh h́nh căng thẳng..khoảng mười phút sau, tiếng chuông điện thoại lại một lần nữa reo lên..và chưa hết tiếng reo..bỗng một tiếng của..ai đó hét to Ra xe.. (nghĩa là chưa ai nghe điện thoại..)..Không ai bảo ai, chúng tôi chạy nhanh và chen chân nhẩy lên xe..
Tôi cũng nhảy lên một step van, chạy một quăng, 4-5 anh pḥng thủ, súng ống đầy ḿnh chạy ra chận lại, có tiếng trong xe la lớn:'ĐM, lên xe luôn, giờ này mà chặn cái ǵ?' thế là thêm đông.. Đến parking tôi chạy về chiếc GZA 027, Herky 027, mà tôi biết tàu tốt..v́ tôi mơi bay về tối hôm qua...Trên pḥng lái, có độ 10 ông pilot C-130..phí thật..
Chỉ một phút sau, chúng tôi take-off..2 phút sau đă có cao độ an toàn (TT Nhân nhẩy vào ghế pilot thay Đ/u Chuân, ngồi co-pilot là Tr/T Đinh..)
(14 chiếc C-130 bị bỏ lại, 9 chiếc đến được Utapao, ngoài ra c̣n 1 chiếc đă đào thoát sang Singapore từ khoảng đầu tháng 4)
Tác giả 'Không quân liệt lăo' trong bài 'Giây phút năo ḷng' (xem phần trên) ghi tiếp:
..Thảo bảo tôi: Ḿnh ra khu trực thăng, moa thấy nhiều lắm, đậu phía gần phi đạo hướng Bà quẹo đó.. Đến khu trực thăng, lên chiếc nào mở máy cũng không..nổ.. tàu nào cũng khô ran..(Tướng Tiên cho lệnh rút xăng..khỏi tàu v́..sợ các phi công..tự động tan hàng).. Chọn trực thăng không xong, Thảo Nâu chở tôi trên jeep đi t́m Cessna..Gặp Cessna, Thảo leo lên, bảo tôi ngồi ghế phài..hắn quay máy, máy nổ. Bỗng nhiên con tàu xao động dữ dội..Quan quân ở đâu đông thế đang dành nhau leo lên tàu..Cessna chỉ có 5 chỗ, làm sao chở nỗi cả chục người..Không ai chịu xuống..
Tôi tự quyết định.. nhường chỗ, mở cửa buớc xuống., leo lên jeep để lái đi,có QC Vân cùng bỏ Cessna lái đi..t́m xem c̣n chiếc nào để quá giang..
Trên đường rời khỏi SĐ 5KQ, ngang qua văn pḥng Tư lệnh phó SĐ, thấy có ánh đèn, cửa mở, tôi đậu xe bước vào.. Gặp Đinh thạch On ngồi thẫn thờ sau bàn giấy..Tôi hỏi:
- On, sao c̣n ngồi đây? Tât cả bỏ đi hết rồi, anh cũng đi đi thôi..
On như người mât hồn: C-130 tụi nó lấy trốn cả rồi..
.. Sau khi ngồi chờ ông On, lôi quyển kỹ thuật C-47..ra 'ôn bài', cả đám đi t́m C-47 để chạy..Đến băi đậu, các phi cơ đều bất khả dụng: hoặc không xăng, hoặc bị trúng đạn pháo kích..Đang tuyệt vọng, cả đám t́m được một C-47 đang nằm trong hangar. khóa kín..Đó là chiếc phi cơ riêng của Tư lệnh Vùng 2..Sau đó có thêm Đ/u Qui chạy đến.. Phi cơ chở đến gần 80 người, cộng theo thiết bị linh tinh..cố gắng cất cánh..để sau cùng đến được..Utapao.
Nhóm của BS Phạm gia Lữ (xem phần trên) sau đó đến phi đạo C-47 để t́m máy bay di tản, có chiếc không khởi động được do b́nh điện yếu..Chiếc DC-6 'B́nh Long Anh dũng' tuy nằm cạnh nhưng được..canh giữ. Sau đó t́m được chiếc C-47 của Tư lệnh KQ, Kh bắn bể khóa..Tất cả leo lên tàu để bay ra Côn sơn..Sau những trục trặc như không có bản đồ phi hành, phi cơ hết dầu thắng (t́m được 2 gallon nơi đuôi phi cơ)..phi cơ đáp được xuống Côn sơn..Th/t Khoa bay thêm một chuyến trở lại Saigon (TSN đă bỏ ngỏ) để đón thân nhân và bay lại ra Côn sơn.. Dùng nón sắt để chuyển xăng, phi cơ đă bay đi Utapao sáng 30/4 khi DV Minh ra lệnh đầu hàng..
Tác giả Nguyễn Cao Thiên trong bài 'PĐ 314, Chuyến bay không phi vụ lệnh '(Đặc san Liên khóa 64SVSQ, 2009) ghi lại một số chi tiết mô tả t́nh trạng hoảng loạn, vô trật tự.. tại TSN khi phi trường bị pháo kich..Sau khi PĐ phó Tấn từ KĐ trở về cho biết 'Trên đó có ai đâu ? vắng hoe ?'.. Mạnh ai nấy chạy..tự t́m phi cơ để..bay đi..Có phi cơ cất cánh quá vội, quên cả gỡ kẹp đuôi, nên bị..rơi ngay tại phi trường. Chiếc C-47 của PĐ 314 bay đến Utapao với trên 40 người..
(16 chiếc C-47, đủ loại kể cả EC, AC đến được Utapao.. 38 chiếc bỏ lại..)
Ngoài ra cũng có 3 AC-119 và 6 C-7A Caribou đến Utapao, 37 chiếc AC-119 cùng 6 chiếc C-119 vận tải bị bỏ lại.. Số Caribou lên đến 33 (trong t́nh trạng đ́nh động..)
Tại Utapao c̣n có:
- 14 chiếc Cessna U-17 Skywagon
- 12 chiếc UH-1
- 3 chiếc O-1 Bird dog
Bảng tổng kết của HK ghi nhận: số phi cơ của KQVN bỏ lại c̣n có 434 chiếc UH-1, 114 chiếc O-1, 32 chiếc CH-47 Chinook và 72 phi cơ các loại khác gồm U-17, O-2A, T-37, T-41 và cả U-6 Beaver..
Bay ra biển:
Các phi cơ trực thăng (UH-1 và Chinook), khi tự động tan hàng..đa số t́m đường thoát bằng cách bay ra biển, để đáp xuống bất cứ tàu bè nào đang di chuyển ngoài khơi: đáp trên chiến hạm Mỹ, nếu có chỗ đáp là tốt nhất, đáp trên chiến hạm VN..và trong tinh trạng 'bi thảm 'nhất' là đáp xuống biển..và phi công tự thoát, nếu may mắn sẽ được tiếp cứu và vớt lên tàu..
Trường hợp đặc biệt nhất được ghi vào lịch sử KQ và HQ Hoa Kỳ là trường hợp đáp của một L-19 chở đầy..'hành khách' trên Hàng Không Mẫu hạm..
Sau đây là một số trường hợp được kể lại trong các bài hồi kư:
Phi đoàn Thần Tượng 215
Khoảng 10 giờ sáng 29 tháng 4, bộ chỉ huy Phi đoàn 215 đă dùng 3 trực thăng để 'di tản 'về Côn Sơn. Trên các trực thăng có Phi đoàn trưởng (Tr/tá Khưu văn Phát), PĐ phó (Th/tá Đức)..các phi đội trưởng.. Tuy nhiên do hết xăng nên cả 3 chiếc sau khi gặp Tàu chở dầu của hăng Shell.đă cố gắng thả người (nhảy từ máy bay xuống sàn tàu từ cao độ chừng 3 m) và phi công c̣n lại sau cùng đă đáp xuống biển, bơi thoát khỏi chiếc phi cơ đang ch́m và được canô vớt..Cả 3 phi công (Đ/úy Chín, Đ/u Vĩnh và Th/tá Lương) đều được an toàn..(Vĩnh Hiếu: Phi đoàn Thần tượng Giờ thứ 25)
Phi đoàn Lôi Vũ 221:
Phi đoàn di tản từ Biên Ḥa về TSN trong đêm 27 tháng 4, khi phi trường bị pháo kích..Chiều 29 tháng 4, Tr/Tá Nguyễn văn Trọng, PĐT tuyên bố giải tán Phi đoàn.. 13 trực thăng của PĐ bay được ra Hạm đội HK..Trong đoàn di tản c̣n có các Đ/tá Phước, Đ/tá Vy (Sư đoàn phó SĐ 1 KQ) (Tâm tư Lôi Vũ -52, Van Nguyên).
Phi đoàn Lôi Thanh 237 (Chinook CH-47)
Ngày 29 tháng 4, lúc 4 giờ sáng, 4 trực thăng Chinook CH-47 đậu song song vơi nhau trước phi cảng Hàng Không dân sự. Các nhân viên phi hành..chờ quyết định của Th/tá Nguyễn văn Ba, Phi đoàn phó..nhưng ông vẩn tŕ hoăn chờ PĐ trưởng (Tr/tá Ch.) c̣n đang kẹt ở Biên Ḥa..Các sỉ quan tham mưu của PĐ đều vắng mặt..Sau đó, ông quyết định di tản 4 phi cơ khả dụng đi Vũng Tàu..khi 4 phi cơ vứa đáp xuống Vũng tàu..th́ phi trường này cũng vừa bị pháo kích..Chỉ 3 phi cơ bay về Cần Thơ, một chiếc đă tự tách khỏi hợp đoàn..3 phi cơ đáp xuống Mỹ Tho, 1 bay trở lại Sàig̣n để..đón gia đ́nh.. khi trở lại Mỹ Tho, phi cơ bị trục trặc nên đành bỏ lại nơi bờ sông..Hai chiêc c̣n lại cất cánh lúc 2 giờ trưa..bay ra hạm đội HK..thả người xuống chiến hạm Kirk,và phi công 'ditching' để sau đó được vớt (Chuyến bay cuối cùng-Nguyển văn Ba- Lư Tưởng Úc châu, số kỷ niệm Ngày Không Lực 1-7-2011)
O-1 Birđ Dog (L-19) đáp trên Hàng Không Mẫu hạm:
Một trường hợp đặc biệt nhất của cuộc di tản, được ghi vào quân sử Hoa Kỳ, phi cơ được lưu giữ tại Viện bảo tàng là trường hợp dùng L-19 đáp xuống Hàng không Mẫu hạm Midway của Thiếu tá Lư Bửng, Sĩ quan trưởng pḥng hành quân của PĐ Sao Mai 114/ KĐ 62 CT/ SĐ 2 KQ.
Việc O-1 đáp trên Hàng không Mẫu hạm đang di chuyển là chuyện không thể tưởng tượng nổi, ngay cả với các phi công Hoa Kỳ và những chuyên viên thiết kế máy bay của hăng Cessna..
Điều gây 'kinh ngạc' hơn nữa là trên phi cơ c̣n có thêm 6 người (vợ và 5 đứa con) ngồi chật cứng trên ghế sau..
Phi công Lư Bửng kể lại như sau (Chuyến bay về vùng tự do của KQ Lư Bửng- Đặc san Lư Tưởng số 02/2010):
..'Sáng 29 tháng 4, tôi và Hường, Nhị cùng bay chiếc O-1 này ra Côn Sơn. Vợ con tôi đă ra Côn sơn bằng phương tiện trực thăng trước, h́nh như của PĐ 215..Chiếc O-1 này t́nh trạng máy tốt, chỉ có vô tuyên là không hoạt động được...Tôi cất cánh từ TSN trong lúc phi trường đang bị pháo kich..Chúng tôi quyết định bay ra Côn sơn v́ không rơ t́nh h́nh Cần Thơ.. Đêm nghỉ tại Côn sơn, chúng tôi chưa biết chắc sẽ đi Thái bằng phi cơ ǵ..Sáng 30 tháng 4, có lệnh đầu hàng, tôi sắp xếp cho tất cả anh em PĐ 114 trật tự lên các C-123 và C-130 đi Thái Lan..Tôi và gia đ́nh dự trù sẽ đi chiếc C-123 sau cùng..nhưng chiếc này bị hư không cất cánh được. Khoảng 130 người c̣n lại đành chờ tàu HQ..Cảnh tượng xuống tàu rất hỗn loạn. Tôi quyết định dùng chiếc O-1 mà tôi đă bay ra Côn sơn hôm qua để chở cả gia đ́nh để bay đi..nhưng chưa biết đi đâu? Trời rất xấu, mưa mù mịt, tôi bay rase motte trên mặt biển, khoảng từ 500 đến 700 bộ. Trong lúc bay tôi thấy nhiều trực thăng bay ra biển..tôi cũng lấy hướng bay này..cho đến khi thấy chiếc hàng không mẫu hạm..
Chiếc O-1 bị hỏng hệ thống vô tuyến nên tôi không thể liên lạc được với ai..Tôi dùng phương thức bay qua đài kiểm soat của chiến hạm, lắc cánh để cho biết hệ thống vô tuyến bị hỏng và xin đáp. Dưới mẫu hạm bắn hỏa pháo đỏ liên tiếp ra dấu cho biết là họ không chấp thuận cho hạ cánh..có lẽ v́ không c̣n chỗ ? Tôi lấy bản đồ, giấy tờ trong máy bay viết chữ xin hạ cánh v́ phi cơ c̣n có vợ con..và buộc vào botte để thả xuống..sàn tàu. Sau đó nhân viên trên tàu xô một số trực thăng xuống biển và dọn các trực thăng khác để lấy chỗ cho tôi đáp..Phi đạo họ dành cho cho tôi đáp là cạnh ngắn, khoăng 150 feet..'
Sau một lần đáp thử để ước lượng các thông số kỹ thuật, như gió ngang, sự di chuyển của mẫu hạm..Phi công Lư Bửng đă đáp thành công..xuống Mẫu hạm Midway trước sự kinh ngạc và thán phục của nhân viên thủy thủ trên tàu..
Trong 'chiến dịch di tản' Frequent Wind':
Hàng không mẫu hạm Midway đă tiếp nhận khoảng 60 trực thăng của KQ VNCH, trong đó có chiếc UH-1 của Tướng Kỳ và cả vài trực thăng của Air America..
Chiến hạm USS Kirk, trong thời gian yểm trợ đoàn tàu di tản của HQ VNCH đă là nơi đáp cho 16 chiếc trực thăng của KQ VNCH..Sàn đáp của chiến hạm chỉ dành cho một trực thăng nên sau khi đáp, trực thăng phải đẩy xuống biển để lấy chỗ cho chiếc kế tiếp..Ngoài 16 chiếc UH-1, c̣n có 1 Chinook sau khi thả người trên sàn đáp đă phải đáp xuống biển, phi công được cứu thoát..Số người trên các trực thăng đáp xuống USS Kirk lên đến gần 200 người..USS Kirk chở được về Subic Bay 3 chiếc UH-1..
Các chiến hạm khác như Blue Ridge, Mobile (LK 115).. đều tiếp nhận các trực thăng của KQVN..
Tài liệu của Air America ghi nhận một số trường hợp các phi công VN dùng súng..'tạm mượn' phi cơ của Air America để bay ra Hạm đội Hoa Kỳ: Chiếc UH-1H (69-16715) của Air America màng dấu hiệu ICSS (Ủy Ban Liên hợp 4 bên) đă do phi công VN bay ra đáp tại Chiến hạm Blue Ridge..trưa ngày 29/4. Tất cả có 6 chiếc trực thăng bị phi công VN mượn tạm, trong đó 5 chiếc loại UH-1 và một chiếc Bell 204B (?), chiếc Bell này sau đó đáp trên USS Kirk. (Air America in South Viet Nam: The Collapse. Tác giả Joe Leeker)
Số phận những phi cơ..đến được Utapao:
Ngay khi các phi cơ của KQ VNCH đáp xuống Utapao, vừa ngừng bánh, tắt máy..các nhân viên phi đạo lập tức sơn lại cờ.. chuyển từ VNCH sang thành máy bay của Hoa Kỳ. Người Thái không muốn 'chứa chấp' những người Việt vừa phải bỏ nước ra đi nên HK đă phải lập cầu không vận, dùng các C-141 để đưa người tỵ nạn sang Guam.
Một trục trặc nhỏ đă xẩy ra: 65 người, tất cả trên cùng một chuyến C-130 đến Utapao.. đă đ̣i trở về VN..Dưới sự lănh đạo của Tr/Uy Cao van Le (?), những nhân viên KQVN này.. khi bay khỏi TSN, không biết là họ sẽ phải..biệt xứ, trong khi gia đ́nh c̣n kẹt lại tại VN..và dọa sẽ tự tử nếu không được như ư. Một Đại tá KQVN và một Tuyên úy QĐ HK đă giúp điều đ́nh để giải quyết vấn đề và c̣n 13 người cương quyết đ̣i về.. Sau cùng cả 13 người đă được chích thuốc ngủ để đưa lên C-141 đi Guam..
CSVN đă lên tiếng đ̣i hỏi chủ quyền về những máy bay tỵ nạn tại Thái và Hà Nội đă đ̣i đưa một phái đoàn đến Thái để kiểm kê các phi cơ..Chính quyền Thái, do áp lực của Hà Nội đă đ̣i' tạm giữ' các máy bay đang ở Utapao. Tướng Aderholt cho biết' các phi cơ này thuộc quyền sỡ hữu của HK theo một điều khoản có ghi trong Thỏa ước Viện trợ Quân sự Mỹ-Việt' nhưng chưa chắc Thái..đồng ư nên ông t́m cách chuyển các phi cơ..khỏi Thái..càng nhanh càng tốt. Trước hết, Aderholt 'tặng' cho Tư lệnh KQ Thái 5 chiếc F-5 (đễ..mua chuộc giới quân sự Thái, thật ra Aderholt..không có quyền.. nhưng trước chuyện đă rồi HK khó lấy lại được 5 phi cơ này). Và ngay khi Hàng không mẫu hạm Midway ghé một Căn cứ HQ Thái gần Utapao ngảy 5 tháng 5..khoảng 140 phi cơ đủ loại đă được chở ra khỏi Thái (trong số này có lẽ gồm cả một số phi cơ, trong tổng số 93 chiếc của Không lực Kmer đă bay sang Thái khi Nam Vang thất thủ). 4 chiếc Skyraiders được Aderholt cho bay đi, cất giấu tại Căn cứ Takhli..Mẫu hạm Midway đă chở về Guam 101 phi cơ của KQVN, trong đó có 21 chiếc F-5E..
Theo 'Escape to Utapao' một chiếc C-123K được đưa ra khỏi Thái (số đuôi 54-00592)..chiếc này hiện ở Phi trường Avra Valley và..không ai biết về trường hợp này..(Theo danh mục trong Flying Dragons trang 164 th́ chiếc này của KQVN)
Tài liệu của Hải Quân Thái ghi nhận: trong danh mục phi cơ thuộc HQ Thái có một số phi cơ 'cũ' của KQVN như:
- C-47A (43-48101, VNAF)
- VC-47D (43-48777, VNAF 'EY'
- AC-47D (43-49095, VNAF 'EK'
- RC-47 (43-49701, VNAF) và (43-49925, VNAF 'EF') và (44-76418, VNAF 'EB')
- EC-47 P (45-1044, VNAF 'WA')
Ngoài ra c̣n 3 chiếc U-7 mang các số đuôi 71-1438; 71-1442 và 7-1455 được ghi là VNAF(?)
Trần Lư
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 3 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
TRẬN KỊCH CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 82 BIỆT ĐỘNG QUÂN
TRẬN KỊCH CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 82 BIỆT ĐỘNG QUÂN
Trận kịch chiến cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 BĐQ với Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Vương Mộng Long, ôi bi hùng ! ! ! Xin kính mời quư vị và quư bạn theo dơi.
==========
“Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của ḿnh!”
Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-G̣n hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1. Chỉ c̣n một quăng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt.
Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-B́nh th́ Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đă di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn.
Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn.
Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, th́nh ĺnh máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:
- “Các đơn vị cấp tốc rút về pḥng thủ Sài-G̣n!”
Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-B́nh, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để “pḥng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Ḥa) th́ mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ.
Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ.
Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 c̣n lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ.
Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng.
Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-B́nh ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-B́nh đă bắt đầu theo cơ giới rút đi.
Lúc tôi tới Cầu Hang th́ những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-G̣n. Giờ này họ đă quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào pḥng, khóa chặt cổng ngoài.
Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội.
Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đă khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng th́ không c̣n ai đi sau chúng tôi nữa.
Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Ḥa có lẽ đă rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-G̣n.
Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày c̣n nằm trên sạp tre. Họ đă hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang.
Tôi không c̣n tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đă kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rơ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.
Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đă khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức.
Tư lệnh đă quay lại t́m tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng.
Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là “những người anh em”. Chỉ trong ṿng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:
- “Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?”
- “Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lư, và thê thảm như thế này?”
Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:
- “Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi! Hu...hu...hu...”
*** Vào Nơi Lửa Đạn ***
Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...
Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri c̣n bố trí, thế tác chiến sẵn sàng.
Những người lính Biệt Động đang chăm chú nh́n cấp chỉ huy của họ. Họ nh́n tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép ḿnh trong ḷng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông băo, mịt mù sấm sét.
Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi t́nh h́nh nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nh́n kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này.
Trong mười năm chiến trận, đă có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào t́nh trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn c̣n hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu ḷng, không bỏ vị trí.
Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đă trở thành một h́nh nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm ǵ bây giờ.
Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu ? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả ?
Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đă bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ ?
Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng ? Đầu hàng cách nào ? Đầu hàng ở đâu ? Đầu hàng với ai ? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày tṛ chúng tôi lặng lẽ nh́n nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.
Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây.
Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,
- “Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!”
- “Hoan hô!...Hoan hô!”
Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.
- “Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?”
Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, ḅ lê, ḅ càng t́m chỗ tránh đạn.
- “Thôi ! Ta đi !” Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.
- “ Ḿnh đi đâu bây giờ, Thiếu tá ?” Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.
- “Th́ cứ đi về hướng Sài-G̣n, t́m xem có ai ở đâu đó, ḿnh nhập vào với họ.” Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết ḿnh sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.
- “Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô”. Chúng tôi đi được chừng nửa cây số th́ đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.
- “Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi !” Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.
- “Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành !”
Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết.
Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-G̣n. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi t́m tới đâu mà phải vội vàng ?
Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long th́ thằng Don đưa ống nghe cho tôi:
- “Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”
Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:
- “Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy ! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!”
Giọng anh Thanh vẫn b́nh tĩnh, từ tốn, không có vẻ ǵ là lo lắng.
Nghe ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy.
Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740
Những cú nổ ḿn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc.
Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yên hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông.
Họ quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha.
Khi cuốn phim “Đường-Sơn Đại-Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-B́nh, ở Pleiku, th́ đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ v́ tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lư tiểu Long, tài tử chính của phim này.
Sau khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái “Đường Sơn” khiến quân thù vừa nghe tên đă khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-G̣n cũng có cái quán được đặt tên như trong phim vơ hiệp của Tàu ?
Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán th́ máy liên đoàn đă cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi :
- “Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?”
- “Phải rồi ! 82 đây!”
- “Lên xe đi ! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!”
- “Có ai ở đó không ?”
- “Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng”
Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,
- “Ḥa b́nh rồi! Ḥa b́nh rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!”
Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho “ḥa b́nh” có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp.
Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.
Xe đang bon bon trên con lộ vắng th́ khựng lại, ḅ từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại.
Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng th́ hai bên đường có tiếng la
- “ Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát !”
Rồi th́ tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. “Ḥa b́nh” rồi.
Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng ?
- “Choác! Choác!....Choác!”
C̣n tiếp ,
Last edited by hoathienly19; 09-28-2020 at 05:14.
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Ông ngồi trên chiếc ghế đẩu, chung quanh la liệt những nẹp nứa và ở góc pḥng một lô rổ đă đan xong, nhưng chưa có cạp. Ánh nắng quái vàng lọt chiếu qua khung cửa tạo thành một vệt trên nền đất. Ông ngồi yên, ngước nh́n tôi đang ở thế chào kính, mỉm cười độ lượng.
– Anh không cần giữ quân phong quân kỷ nữa. Bây giờ chúng ta cùng là tù binh cả. Nội qui trại nói rơ mọi người đều gọi nhau bằng anh, không có chuyện cấp trưởng, không có chuyện Lữ Đoàn Trưởng, Sư Đoàn Trưởng, tá tiếc ǵ nữa. Anh ngồi xuống đi.
Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù là tù binh cao cấp nhất đă bị bắt khi ông bị thương ở chân và bộ chỉ huy của Lữ Đoàn bị tràn ngập ở Nam Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Tôi lúng túng không biết nói năng ǵ với một vị sĩ quan của binh chủng tinh nhuệ nhất miền Nam. Ông và toàn bộ chỉ huy trong đó có Trung Tá Trần Văn Bé, Trưởng Pḥng Nh́ Sư Đoàn Dù đă bị vây khốn v́ quân số chênh lệch giữa ta và địch, v́ không có đủ tiếp tế đạn dược, tải thương. Tôi đă nghe bạn bè ca ngợi ông và tuy dù chưa một lần diện kiến, tôi luôn h́nh dung ông đội mũ đỏ có cánh dù, quần áo mầu huyết dụ cầm cây can chỉ huy đứng trước hàng quân. Nhưng nay ông ngồi đó trong căn lều lá nền đất ngồi đan rổ. Ông đang nghĩ ǵ? Thấy tôi vẫn đứng đó, tay vẫn c̣n ở thế chào, ông lắc đầu:
– Cám ơn anh. Trung Úy Đỗ Lệnh Dũng phải không? Anh em mới tới cho biết là Đồng Xoài đă mất, Bố Đức cũng mất, e rằng Phước Long cũng nguy đến nơi. Cái vận nước nó thế, biết làm sao hơn. Anh ngồi xuống nói chuyện miền Nam cho tôi nghe đi.
Ḷng tôi nhũn xuống. Ông vừa nói vừa tiếp tục bẻ những cây nan nứa cong xuống, lồng vào nhau. Chiếc rổ ông đang đan đă hơi có dạng cong. Khuôn mặt ông b́nh thản một cách lạ lùng. Mọi thứ từ con người ông là một cam chịu nhưng không khuất phục. Ông nói năng từ tốn, không hề ngưng tay đan lát như thể cả cuộc đời c̣n lại của ông chỉ để đan kết những mảnh lạt, những nẹp nứa. Tôi ngồi xuống chiếc ghế con cạnh ông thong thả kể tất cả những ǵ xảy ra ở Đồng Xoài. Ông chăm chú nghe, và cuối cùng thở dài:
– Tôi đă nhiều đêm khóc một ḿnh. Tôi thương những người lính như người nghĩa quân cố chạy ra để rồi chết bên lá cờ ở Đồng Xoài. Nhảy dù có nhiều anh hùng lắm, nhất là những người lính b́nh thường, lương không đủ nuôi vợ con. Nhưng cái vận nước nó thế biết làm sao hơn.
Tôi nói:
– Thưa Đại Tá, cuộc hành quân 719…
Ông ngẩng đầu nh́n tôi, đôi mày nhíu lại khiến tôi khựng, không nói năng thêm được. Nhưng ông lấy lại cái dáng yên nghỉ của một thiền sư, vững vàng ngay lập tức. Lưng ông vẫn thẳng và cái áo tù sọc đỏ như hơi chật khiến vai ông như rộng hơn ra. Cái dĩ văng 719 Hạ Lào chỉ thoáng qua trong xúc động cùng cực nhưng rồi ông chậm răi:
– Trung Úy Dũng, từ nay ḿnh gọi nhau bằng anh em, được không? Không phải v́ nội qui của trại. Cũng không phải v́ là tù mà phải bỏ cái cấp bậc quân đội của ḿnh sang một bên. Không phải như vậy. Anh c̣n trẻ, trông anh khoẻ mạnh, người doi doi như anh chắc sẽ vượt qua mọi gian truân của tù tội. Tôi có điều này để nói với anh như một người lính nói với một người lính. Chúng ta đă không hổ thẹn với việc làm của chúng ta, dù ai nói ǵ th́ nói.
Lam Sơn 719 được tung ra với hai mục tiêu. Mục tiêu đầu là phá vỡ hệ thống tiếp liệu của địch mà trọng tâm là ở vùng Tchéphone, Hạ Lào, t́m cách kiểm soát con lộ số 9 để chặn đường tiếp tế của địch từ Bắc. Tất cả những anh em Dù, anh em Sư đoàn 1, anh em Thiết Giáp Pháo Binh, anh em bên Không Quân, tôi nói về tất cả những anh em ḿnh đă tham dự 791 Hạ Lào hồi đó đều biết chắc giai đoạn đầu của cuộc hành quân đă đạt được mục tiêu của nó. Khó mà đưa ra tổn thất chính xác của địch nhưng tôi cam đoan một đổi mười là ít. Nh́n những kho xăng địch cháy, những kho lương thực bị phá hủy, và nhất là nh́n cảnh bộ đội Bắc Việt chết sắp lớp, tôi có thể xác định mục tiêu đầu của ta đă đạt.
– Thưa Đại… – Vâng, thưa anh, nhưng…
Ông giơ tay chận ngang, ngắt lời tôi:
– Tôi ở trong hầm chỉ huy. Hai chiến xa địch sập hầm bít hết lối và tôi đă gọi pháo bắn chụp lên đầu tụi tôi. Hồi đó tôi cứ thắc mắc tại sao các cấp chỉ huy địch lại phí phạm sinh mạng thuộc cấp đến như vậy. Có một hai sĩ quan khi khai thác tù binh tại mặt trận bảo họ được uống cường lực hay an thần ǵ đó của Trung Cộng. Tôi không tin hẳn chuyện này. Nhưng trong suốt những ngày tù đày ngồi đan rổ rá, tôi vẫn không hiểu tại sao họ phí phạm sinh mạng binh lính đến thế? Thế nào rồi anh cũng có dịp ra ngoài để thấy hậu phương miền Bắc không c̣n thanh niên nữa. Họ đem nướng không thương tiếc. Chỉ tội cho dân ḿnh, Bắc cũng như Nam. Tôi hiểu các thắc mắc của anh. Tôi không trả lời được tại sao Lam Sơn 719 đă không được đẩy tới trong giai đoạn hai là chiếm giữ các cứ địa 604 và 611 trên đường xâm nhập của địch. Hồi 1970 ḿnh đă phá tan hệ thống tiếp liệu của địch ở Miên. Nếu chúng ta tiến hành đúng, chiếm giữ 604 và 611 trong ṿng ba tháng nữa mùa khô th́ địch sẽ không c̣n cách ǵ tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Tôi không trả lời anh được v́ tôi bị cầm tù từ hồi đó. Anh ở miền Nam chắc anh có đọc báo hay nghe tin tức, anh có biết tại sao không?
Tôi lắc đầu trầm ngâm. Hẳn là Đại Tá Thọ cũng không chờ một lời giải thích nơi một viên sĩ quan hạng bét như tôi. Nhưng cái thắc mắc của ông hẳn đă dày ṿ ông nhiều hơn là cảnh tù đày mà ông đang gánh chịu. Mong rằng sau này những nhà quân sử sẽ trả lời được cho người tù đă coi ngày bị bắt là ngày giỗ của ḿnh.
Ông là sĩ quan cao cấp nhất và được ở riêng một căn lều lá, không phải lao động nặng nhọc nhưng cũng phải chịu chế độ khoán. Đây là một chính sách hẳn ḥi được rút tỉa kinh nghiệm của các trại tù Nga Xô, Trung Cộng. Nó đẩy người tù đến tận chân tường, không có cách ǵ cục cựa nổi. Tôi không rơ một ngày Đại Tá Thọ phải nộp mấy cái rổ nhưng trông đống tre, nứa chất đống ở một góc nhà, tôi biết là ông đă phải lao động cật lực để đạt chỉ tiêu. Cuối cuộc tŕnh diện, ông trầm ngâm rồi bảo tôi:
– Cám ơn anh vẫn c̣n nghĩ đến t́nh đồng đội để đến thăm tôi – Ông không dùng chữ tŕnh diện – Điều duy nhất tôi mong mỏi ở tất cả các anh em là phải thương yêu đùm bọc nhau, cố giữ lấy tinh thần của một người lính quốc gia. Chỉ có thế, anh em ḿnh mới chứng minh được ḿnh khác họ. Và chỉ có thế mới minh giải được những điều anh em ḿnh đeo đuổi là đúng. Anh cho tôi gửi lời thăm tất cả anh em mới tới và bảo họ không cần tới thăm tôi nữa. Anh nói dùm với anh em là tôi luôn cầu Trời Phật để mọi người mạnh khoẻ.
Lê Thiệp
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
TRẬN KỊCH CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 82 BIỆT ĐỘNG QUÂN ( tiếp theo )
TRẬN KỊCH CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA TIỂU ĐOÀN 82 BIỆT ĐỘNG QUÂN ( tiếp theo )
*** Gian Lao ***
Tôi tối tăm mặt mũi v́ loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lănh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun “ph́...ph́...” che kín đầu xe.
Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng ḿnh, tôi đă ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. H́nh như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh
- “ Đưa tao !”
Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi ṇng. Tên du kích giăy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên ḿnh thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nă đạn vào hai chiếc xe be.
“Oành!”. Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rơ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đă ghim vào cẳng ḿnh.
Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành ṿi; phần thân thể c̣n lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết c̣.
Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này.
Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng ! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-B́nh, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.
Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính c̣n đứng trên xe. Những thân h́nh rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đă lăn ra chết.
Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, c̣n lơ lửng trên không, tay đă bóp c̣, nă đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp c̣. Không ai để ư đến thân thể ḿnh đă trúng thương nơi đâu.
Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đă trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay c̣n lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác.
Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.
- “Cành! Cành! Cành!...” Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí
- “Đù má tụi mi ! Chết cùng chết ! Ông chết ! Tụi mi cũng chết!”
Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đă diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt.
Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp.
Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nh́ đă được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đă bị loại ra ngoài ṿng chiến.
Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết ! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ ḷng tḥng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên.
Hết đạn, những con cọp giăy chết đành dùng tất cả những ǵ cha mẹ ban cho để tự vệ:
Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng.
Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé...
Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, c̣n cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, v́ cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người t́nh phụ).
Tôi đă bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi.
Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe th́ đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,
- “ Thái Sơn ơi ! H́nh như tank tới !”
- “ Làm ǵ có tank ! Chỉ có 12,7 ly thôi !”
Đạn pḥng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân ḿnh người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây.
Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đă găy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không c̣n khẩu M16 nào hoạt động.
Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đă chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nh́ đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.
Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đă găy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết v́ trúng đạn 12,7 ly.
Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn ḿnh vài ṿng, tới bên Tài. Tài nh́n tôi, thều thào,
“Chạy đi !... Ông thày... chạy đi!...”
Tôi định xốc Tài lên để d́u anh vào lề đường th́ hai mắt anh đă lạc. Đạn bay xém bên ḿnh tôi, nổ “toang toác!” trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.
- “Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi !” Đó là tiếng Trung úy Trâm.
“Toác! Toác!” - “Chíu! Chíu!” đạn địch đuổi theo.
Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi th́ tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật.
Trâm cơng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngă bổ nhào trên mặt ruộng.
Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương văi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ.
Tôi chợt nhớ tới gia đ́nh vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đă chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đă mất. Đơn vị tôi đă tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,
- “Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi!...ơi...ơi... ”
Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê ṇng súng vào mang tai ḿnh, bóp c̣. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.
- “ Trâm ơi ! Làm ơn!... Cho anh chết! Trâm ơi!...”
Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm ĺ, xốc vai tôi bước đi.
Ngoài lộ vẫn c̣n lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một g̣ mả.
Trâm từng bước d́u tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu th́ đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất th́ một nông dân đạp xe tới chặn đường,
- “ Ông thiếu tá bị thương hả ?”
Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đă nh́n thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động ḷng,
- “ Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi ! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!”
-” Cám ơn cụ !” Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.
Con lộ đất dẫn tới một văn pḥng Hội Đồng Xă, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung.
Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,
- “ Cởi quân phục vứt đi th́ chỉ c̣n cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Ḿnh làm sao đây, Thái Sơn ?”
Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa ṇng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào c̣ súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!”
Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, th́ chú Trâm van lơn,
Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày tṛ tôi ôm nhau. “Hu... hu... hu....”
Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc.
Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng ǵ với nhau, nh́n nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.
Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ :
- “ Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn .”
Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.
- “Chúng nó (VC) chết nhiều lắm ! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi ? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt.”
Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi th́ ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,
- “Mẹ ơi ! Con đây ! Hải đây ! Mẹ mở cửa cho con !”
Cánh cửa hé mở, một bà già, giọng Bắc Di Cư:
- “ Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo !”
- “ Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, cḥm xóm không nhớ mặt đâu ! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo !”
Bà mẹ nh́n tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài ḍng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,
- “Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi ! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu !” Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đă chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.
Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,
- “Anh kia ! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không ?” một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.
- “ Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải ! Chổ cây dừa nghiêng...”
Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,
- “ Chứ hai anh kia làm chi rứa?”
- “ Anh Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh miệng.
- “ Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biết.” Bà cụ phân trần.
Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,
- “ Nhanh lên ! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát ! Các đồng chí cẩn thận đấy ! Tụi nó có súng !”
Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ ḷng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về
- “ Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.”
- “ Hai con có c̣n tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho !” bà cụ ân cần.
- “ Cám ơn bác. Chúng cháu c̣n tiền đây. Chúng cháu mới lănh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào .”
Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nh́n chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm t́nh thương xót bao la.
- “ Thưa Mẹ ! Con đi !”
- “ Thưa Mẹ! Con đi !”
- “Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!”
Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đă là Mẹ tôi, đă sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải c̣n trông theo.
Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào ḍng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi :
“ Thái Sơn ơi ! Trâm ơi !”
Th́ ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy. Ba thày tṛ tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những ǵ đă trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang t́m đường về nhà, sau khi im tiếng súng.
Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đă xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang.
Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố.
Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb ḅ ́ ạch v́ quá tải.
Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)
C̣n cách ngă ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ ṿng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, v́ giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy.
Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng th́ thày tṛ tôi tới xa lộ Đại-Hàn.
Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-G̣n. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.
Chúng tôi về tới Thị-Nghè th́ mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích v́ B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đă khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương văi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Ḥa, dây đạn, nón sắt, ba lô...
Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc t́nh h́nh lộn xộn, cḥm xóm biết ḿnh là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc.
Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn pḥng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đ́nh bạn tôi đă di tản rồi.
Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...
Quên đời ? Chỉ c̣n cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày tṛ tôi kẹp nách mỗi người một chai.
Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết ḿnh là ai; vừa t́m xem chú Phước c̣n hay mất.
Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước c̣n mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước.
Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất th́ Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi
- “ Ôi ! Anh Hai ! Anh Hai ! Mừng quá! Anh Hai ơi !”
Th́ ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-B́nh. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-G̣n.
Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nh́ đă bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đă được dân chúng di tản đi cứu cấp.
Thiếu úy Thủy đă cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, v́ địch quá đông.
Đến lúc khẩu pḥng không 12,7 ly của địch tham chiến th́ Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy.
Chú Thủy nói, h́nh như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rơ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không c̣n dịp gặp lại nhau nữa.
*** Thời gian trôi... ***
Mười ba năm sau [sau khi ra tù], cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh”.
Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức.
Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đă mau mắn trả lời :
- “ Đi rồi ! Bán nhà, vượt biên . Năm, sáu năm rồi !”
- “Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời !”
Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà... nghệt mặt, giương mắt nh́n anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ư anh.
Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có c̣n nhận ra anh không ?
Qua văn pḥng Ủy-Ban Nhân-Dân Xă, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số.
Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đă tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đă sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số “82” màu vàng.
Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng c̣n nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.
Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,
- “ Các chú tha lỗi cho anh...”
Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ ḷng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. H́nh như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, năo nuột:
- “Thày ơi ! Chạy đi !... Thày ơi!...”
Ngồi bên b́a rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...!
Vương Mộng Long
The Following 4 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Cuối năm 2001, người xem TV các chương tŕnh “Suicide Missions” (History Channel), “Navy SEALs :
Untold stories” (TLC - The Learning Channel) sẽ thấy một nhân vật Việt Nam tên Kiệt được nhắc đến trong những chuyến công tác chưa bao giờ được kể lại. Nhân vật này là ai ? T́nh tiết trong các phim tài liệu đó có chính xác không ? Mời đọc giả đi ngược thời gian….
Cách đây hơn 40 năm về trước, vào mùa hè năm 1972, c̣n được gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. bọn cộng sản Bắc Việt (CSBV), là bọn lính đánh thuê tay sai của cộng sản quốc tế Tàu-Nga, đă theo lệnh quan thầy, điên cuồng mở cuộc tấn công xâm lăng miền Nam Việt Nam ở ba mặt trận Quảng Trị, Cao Nguyên, An Lộc.
30 ngàn quân CSBV xâm lược trang bị vũ khí tận răng, ngang ngược tràn qua vùng phi quân sự (DMZ) ở vĩ tuyến 17, vượt tràn qua sông Bến Hải.
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) và đồng minh ở trong thế giằng co với kẻ địch….
Trong một chuyến thám thính thâu lượm tin tức, chiếc máy bay EB-66 của Không Lực Hoa Kỳ bất th́nh ĺnh bị hỏa tiễn SAM bắn hạ.
Phi cơ thám thính điện tử EB-66.
Vừa kịp tung ra khỏi máy bay, Trung Tá Iceal “Gene” Hambleton kinh hăi chứng kiến cảnh chiếc máy bay bùng nổ làm thiệt mạng 5 người c̣n lại trong phi hành đoàn.
Chiếc dù từ từ lượn xuống, dù bị mây mù che phủ không thấy đất, Trung Tá Hambleton biết chắc là 30 ngàn địch quân đang chờ ḿnh dưới đất.
Thế là guồng máy quân sự của đồng minh bắt đầu một cuộc “t́m kiếm và giải cứu” (search and rescue) đắt giá và tổn hại nhất trong cuộc chiến.
Hai chiếc trực thăng Bộ Binh vừa nhào đến địa điểm giải cứu liền bị bắn hạ. Phi hành đoàn 4 người của chiếc Blueghost 39 thiệt mạng tại chỗ. Chiếc trực thăng thứ nh́ ráng “lết” đến một địa điểm an toàn và phi hành đoàn được một chiếc trực thăng khác đến giải cứu.
Màn đêm buông xuống, Trung Tá Hambleton trơ trọi một ḿnh dưới đất trong sự che chở của rừng rậm, bủa vây tứ bề bởi một lực lượng địch quân lớn nhất trong cuộc chiến VN.
Hôm đó là Ngày Phục Sinh, Chúa Nhật 2 tháng 4, 1972. Không Quân Hoa Kỳ (HK) biết vị trí của Trung Tá Hambleton nhưng không tài nào với tới nổi ông ta v́ địch quân bủa vây dầy đặc. Tối đó họ chỉ có thể thả ḿn xung quanh ông ta để ngăn cản địch quân tới gần.
Sáng hôm sau, chiếc trực thăng “Jolly Green 65″ bay tới gần vị trí của Trung Tá Hambleton th́ lập tức bị “dàn chào” bởi một trận mưa đạn tàn khốc. Lại phải “lết” về.
Chuyến kế của “Jolly Green 66″ cũng không khấm khá. Đạn bắn rát từ tứ phía như xé nát chiếc trực thăng. Và cũng phải “lết” về lại căn cứ.
Trước khi màn đêm phủ xuống vào ngày Thứ Hai, một chiếc máy bay hỗ trợ cho cuộc giải cứu bị hỏa tiễn SAM bắn hạ.
Đại Uư William Henderson và Trung Úy Mark Clark nhảy dù thoát hiểm, đáp xuống đất gần vị trí của Trung Tá Hambleton.
Cuộc giải cứu bây giờ không phải cho một người nữa, mà cho 3 sĩ quan Hoa Kỳ, mỗi người lạc một lối.
Dưới đất, 3 người phi công HK chứng kiến tận mắt trong nỗi niềm thất vọng khi thấy các loạt giải cứu kế tiếp bị đẩy lui bởi hỏa lực tàn khốc của địch.
Chỉ trong ṿng 24 tiếng đồng hồ, 3 máy bay bị bắn hạ, 5 chiếc bị thiệt hại nặng nề, 4 người thiệt mạng.
Và xui xẻo thay tối đó Đại Úy Henderson bị cs BV lùng bắt được. Trong khi đó, quân đội HK khám phá ra rằng Trung Tá Hambleton từng phục vụ với Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command).
Ông ta giữ trong đầu một kho kiến thức về hệ thống hỏa tiễn nguyên tử, cái loại dữ kiện không thể để rơi vào tay kẻ địch.
Bằng mọi giá phải giải cứu cho được Trung Tá Hambleton.
Những ngày kế tiếp, không lực HK mở nhiều cuộc tấn công xung quanh cầu Cam Lộ. V́ hỏa lực địch quá mạnh, không chiếc máy bay nào có thể xuyên thủng ṿng vây được. Trái lại hầu hết đều bị bắn hư hại nặng.
Mọi người đều nhận ra là kẻ địch đang dùng hai phi công Hoa Kỳ làm mồi để nhử các chuyến giải cứu vào để tiêu diệt.
Đến ngày 6 tháng 4, tổng cộng có đến 52 chiếc máy bay và 4 chiếc B-52 oanh tạc liên tục chung quanh vùng Cam Lộ.
Trong lúc đó, chuyến phi hành “Jolly Green 67″ chuẩn bị để thực hiện cú “chộp” lấy Trung Tá Hambleton.
Chiếc trực trăng “Jolly Green 67″ gần đáp xuống vị trí của Trung Tá Hambleton giữa khói lửa mịt mù, giữa những lằn đạn của địch cào nát phi cơ.
Bị bắn quá rát, trực thăng rút lên không kịp, rơi sầm xuống đất nổ tung. Thiệt mạng tất cả phi hành đoàn 6 người.
Trung Tá Hambleton gục khóc khi thấy biết bao nhiêu người thiệt mạng chỉ để giải cứu lấy ḿnh. Bằng mọi giá ông ta tự nhủ cũng phải sống c̣n….
Ngày 7 tháng 4, một chiếc máy bay khác hỗ trợ cuộc giải cứu lại bị bắn hạ. Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Larry Potts bị thất tung.
Ngày 9 tháng 4, 1972, quân lực HK nhận thấy cuộc giải cứu kết hợp nỗ lực của nhiều binh chủng không thành công.
5 phi cơ bị bắn hạ, 9 quân nhân bị thiệt mạng, 2 người là tù binh, mất tung tích 2 sĩ quan khác.
Không lực Hoa Kỳ gần như bó tay chưa biết tính toán như thế nào.
Lúc bấy giờ, Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Al Gray đưa ra một đề nghị khác :
Một cuộc giải cứu âm thầm bằng đường bộ. Ai thực hiện công tác này ?
Câu trả lời :
Biệt kích Mỹ và Việt.
Phóng đồ hành quân Bat 21 Bravo và Nail 38 Bravo giải cứu Trung tá Không quân Hoa Kỳ Hambleton từ ngày 2 đến ngày 14 tháng 4 năm 1972.
Đại Úy Thomas Norris thuộc US Navy SEAL cùng 5 Người Nhái (Frogmen) Việt Nam từ căn cứ Đà Nẵng đến để chuẩn bị.
Cùng lúc đó, Không Lực HK ra tín hiệu cho hai phi công HK kẹt trong ḷng địch t́m cách tới điểm hẹn.
Trung Úy Clark đang ở gần sông Cam Lộ, chảy về hướng Đông ra Cửa Việt.
Tối ngày 10 tháng 4, 1972, sẽ men theo ven sông đến điểm hẹn. C̣n Trung Tá Hambleton cách gịng sông gần 2 cây số cần phải được hướng dẫn để len lỏi qua ṿng đai địch quân dầy đặc để đến bờ sông.
Toán biệt kích tập trung tại một tiền đồn (forward operating base) nằm trên một ngọn đồi thấp cạnh sông Miếu Giang, quận Cam Lộ.
Nhóm Người Nhái Việt Nam gồm có một Đại Úy trưởng toán, hai Hạ Sĩ Nhất, và hai Hạ Sĩ. Kiệt, 27 tuổi, lúc bấy giờ là Hạ Sĩ Nhất Trọng Pháo, thuộc sở Pḥng Vệ Duyên Hải, và cũng là một Biệt Hải được huấn luyện theo mô h́nh của US Navy SEALs.
Từ tiền đồn, Norris cùng với nhóm Biệt Hải đi ngược ḍng sông để giải cứu cho Trung Úy Clark trước, rồi Hambleton sau đó.
Khi màn đêm buông phủ ngày 10 tháng 4, đội biệt kích khởi hành .
6 người trơ trọi trong bóng đêm đối đầu với một lực lượng địch quân đă bất chấp sức mạnh của không lực HK. Thoạt đầu, toán biệt kích dự tính bơi ngược ḍng sông để gặp Trung Úy Clark trôi xuôi ḍng xuống. Nhưng v́ ḍng nước chảy mạnh quá nên cả toán đành phải xâm nhập bằng đường bộ theo ven bờ sông.
Một toán Người Nhái VNCH trong khóa huấn luyện tại Nha Trang
Toán biệt kích chậm răi tiến từng bước trong màn đêm, vượt qua mặt từng đoàn thiết giáp, xe hàng, và các toán tuần tiểu thường xuyên canh pḥng.
Đây là một việc chậm răi, nguy hiểm và có thể trở thành chết người trong nháy mắt. Nhóm điều hành chuyến giải cứu biết là nguy hiểm nên đă dặn cả toán là đừng đi quá một cây số vào cứ địa của địch ở thượng nguồn.
Nhưng toán biệt kích biết là như vậy không đủ nên tiếp tục âm thầm vượt qua tai mắt kẻ địch để cuối cùng dừng lại và chờ … 2 cây số ở thượng nguồn.
Gần 3 giờ sáng, toán biệt kích phát hiện một vật di động xuôi ḍng sông. Đó chính là Trung Úy Clark.
Trước khi cả toán bắt đầu cuộc giải cứu th́ một toán tuần tiểu của địch xuất hiện. Cả toán lặng yên chờ đợi trong khi Trung Úy Clark cứ trôi xuôi ḍng sông.
Đến khi kẻ địch đă đi qua th́ Trung Úy Clark cũng biến dạng trên ḍng sông nước chảy mạnh. Cả toán biệt kích rút lui đi dọc theo bờ sông để truy lùng Clark.
Cuối cùng toán phát hiện ông ta đang ẩn núp ở ven sông.
Trời đă hừng sáng, tuy đă t́m được Trung Úy Clark nhưng cả nhóm vẫn c̣n ở sâu trong vùng địch. Hết sức chậm răi và cẩn trọng, toán biệt kích tiếp tục chuyến hành tŕnh đào tẩu khỏi vùng địch.
Trưa hôm đó, cả toán về đến vùng an toàn. Trung Úy Clark được bốc về Đà Nẳng. Toán biệt kích c̣n ở lại tiền đồn. Công tác của họ chưa xong v́ vẫn c̣n một phi công HK cần giải cứu.
Ngày hôm sau, 11 tháng 4, 1972, toán biệt kích chuẩn bị lên đường.
Trong chuyến giải cứu hôm trước cả toán đă chứng kiến tận mắt lực lượng địch quân dầy đặc. V́ thế trước khi toán biệt kích lên đường, không lực HK đă dội bom phủ đầu các vị trí địch để dọn đường.
Địch quân liền trả đũa với hàng loạt mọt chê bắn phủ đầu lên tiền đồn quân lực VNCH.
Thật là xui xẻo, người Đại Úy Biệt Hải Việt Nam và Trung Tá Anderson (cố vấn cho nhóm biệt kích) bị thương.
Một Biệt Hải hộ tống hai người trở lại hậu cứ. Nhóm biệt kích chỉ c̣n lại 4 người :
Tom Norris và 3 Biệt Hải VN. Nhóm biệt kích 4 người c̣n lại vẫn tiếp tục nhiệm vụ giải cứu.
Họ lên đường rạng tối ngày 12 tháng 4. toán biệt kích chuẩn bị lên đường.
Lần này cả toán mạo hiểm gần 4 cây số sâu vào ḷng địch.
Càng vào sâu, nh́n thấy địch quân dầy đặc tứ bề, 2 người trong toán biệt kích e ngại và không muốn tiến thêm. Nhưng rồi cuối cùng cả nhóm vẫn tiến tới để truy t́m Trung Tá Hambleton.
Trời đă hừng sáng mà không thấy tăm tích ông ta đâu cả, toán biệt kích đành thất vọng rút lui.
Trực trăng Jolly Green HH-53 cấp cứu phi công lâm nạn.
Trung Tá Hambleton, 53 tuổi, sau 10 ngày trốn tránh, đói khát sức khoẻ kiệt quệ, đầu óc mụ mẫm đi, phương hướng lẫn lộn. Thời gian không c̣n bao lâu trước khi ông ta gục ngă chết lịm trong rừng già.
Hôm sau trong khi toán biệt kích nghỉ dưỡng sức th́ không lực HK liên lạc bằng tín hiệu với Trung Tá Hambleton, động viên tinh thần ông ta cố gắng gượng sức để ra đến chỗ hẹn.
Sức khoẻ của ông đă đến hồi nguy kiệt. Nếu toán biệt kích không “chộp” được ông tối nay th́ có lẽ đó sẽ là cơ hội cuối cùng. toán biệt kích chuẩn bị lên đường.
Họ cũng lượng định rằng trong t́nh trạng sức khoẻ như vậy, Trung Tá Hambleton khó mà đến chỗ hẹn. Nếu muốn thành công, toán biệt kích phải đi t́m cho ra được ông ta.
Người Nhái Hải Quân VNCH Nguyễn Văn Kiệt và Người Nhái Hải Quân Hoa Kỳ Tom Norris.
Trong chuyến đi này, 2 Biệt Hải VN từ chối không tham dự. Người duy nhất t́nh nguyện đi là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa.
Đối diện với hiểm nguy, Kiệt vẫn t́nh nguyện đi v́ yêu chuộng sự hào hùng của ngành Biệt Hải, và cũng v́ ḷng nhân đạo không nỡ thấy người sắp chết mà không cứu.
Hai biệt kích, một Mỹ, một Việt. Tom Norris và Kiệt mặc quân phục ngụy trang như bộ đội chính quy Bắc Việt, trang bị súng AK-47.
Họ quyết định dùng xuồng đi ngược ḍng sông lên hướng Bắc. Như thế sẽ lẹ hơn đi đường bộ và mới có đủ thời giờ để truy t́m Trung Tá Hambleton.
Trong màn đêm, tay chèo, tay súng, họ nghe rơ mồn một tiếng tṛ chuyện của địch quân canh gác ven sông, tiếng gầm rú của xe tăng T-54, tiếng di động của cả đoàn quân hùng hậu.
Họ chèo chậm răi để tránh tai mắt kẻ địch. Một màn sương mù phủ lấp ḍng sông che chở họ khỏi sự ḍm ngó của kẻ thù nhưng đồng thời lại làm cho họ chậm tay chèo. Và họ cũng không ngờ là họ chèo gần đến cầu Cam Lộ, nơi địch quân đóng giữ.
Quốc lộ 9 và sông Cam Lộ (nh́n về hướng Nam-Đông phía Đông Hà)
Khi nghe tiếng chân bộ đội Bắc Việt tuần tiểu đi lại trên cầu, họ mới biết là đi lố. May mắn là sương mù che phủ khắp vùng nên Tom và Kiệt không bị phát hiện. Họ chèo trở ngược lại, xuôi ḍng sông và t́m kiếm Trung Tá Hambleton.
Không ảnh các vị trí trong cuộc t́m kiếm
Biệt Hải Vịệt Nam Cộng Hòa
(copy lại từ internet, không biết người viết)
Rồi cuối cùng Tom và Kiệt cũng t́m ra Trung Tá Hambleton, một thân h́nh tong teo gục ngă gần bờ sông. Ông ta chỉ c̣n thoi thóp thở. Tom và Kiệt đem Trung Tá Hambleton lên dấu dưới đáy xuồng, lấy lá chuối che phủ thân h́nh ông ta.
Họ bắt đầu cuộc hành tŕnh rút lui khỏi vùng địch, thoát khỏi gọng kềm của tử thần, vẫn một cách chậm răi như mọi khi.
Lúc bấy giờ hừng đông đă ló dạng.
Bất th́nh ĺnh, Kiệt nghe tiếng gọi :
- “ Ê, lại đây !”.
Cả hai người cùng quay đầu lại và bắt gặp 3 tên lính Bắc Việt xa xa trên bờ. Tên đi giữa là sĩ quan, vắt khẩu K54. Hai tên cận vệ kè kè AK-47 hai bên. Khoảnh khắc đó thật dài như thế kỷ. Kiệt cảm thấy ớn lạnh dọc theo xương sống. Nhưng cả hai người đều b́nh tĩnh quay đầu trở lại, tiếp tục chèo xuồng xuôi huớng Nam.
Vừa chèo, Kiệt đă bắt đầu đếm thời gian và lắng nghe tiếng súng của bọn chúng sẽ bắn theo. Nhưng chúng hoàn toàn im lặng. Một cái im lặng đáng nghi ngờ và hồi hộp vô cùng. Kiệt ráng lắng nghe tiếng chân rầm rập đuổi chạy theo. Nhưng tất cả không gian lúc ấy hoàn toàn trở lại b́nh thường im lặng. Một sự tĩnh mịch khó hiểu.
Có thể chúng sẽ liên lạc máy để chận xuồng ở một đoạn sông sắp đến ? Hay chúng đang chỉ điểm để pháo kích theo ? Bấy giờ là giờ phút hết sức căng thẳng trong tâm năo của Kiệt. Bao nhiêu giác quan của Kiệt được tận dụng tập trung quan sát để phản ứng kịp thời …
Tom lập tức báo cáo bằng radio là đă giải cứu được Trung Tá Hambleton. Tuy thế chuyến giải cứu chưa xong v́ họ vẫn c̣n sâu trong ḷng địch và khi trời hừng sáng, sự ngụy trang của họ không qua mặt được kẻ địch. V́ thế, không lực HK được điều động sẵn để hỗ trợ bất cứ lúc nào.
Đúng như Kiệt dự đoán, kẻ địch đă báo động về sự xâm nhập của chiếc xuồng biệt kích. Tiếng la hét, tri hô vang dậy cả bầu không khí tĩnh mịch. Cuộc truy đuổi bắt đầu. Tom và Kiệt chèo hối hả, mượn ḍng nước chảy mạnh để đưa con xuồng đi thật lẹ, cũng như nhờ cậy vào các tàng cây dầy đặc ven sông che dấu bớt h́nh ảnh chiếc xuồng mong manh.
Trong khi đó đạn của địch không ngừng bắn xối xả ngang sông. Thấy hỏa lực địch quá mạnh, Tom và Kiệt tấp xuồng vào một bụi cây ven sông và gọi không lực yểm trợ ngay lập tức.
Không gian yên lặng của đoạn sông bị xé nát bởi những lằn đạn bắn tứ phía. Đạn từ trên không bắn xuống, đạn từ dưới đất bắn lên, đạn từ hai bên bờ nhả xuống sông lia lịa. Và cũng nhờ sự yểm trợ không lực mạnh mẽ và liên tục, Tom và Kiệt cuối cùng cũng đưa con xuồng xuôi ḍng an toàn.
Khi gần đến tiền đồn của quân lực VNCH, quân đội hai bên dàn trận ra “tiếp đón” lần nữa. Cộng Sản Bắc Việt bên bờ Bắc, quân đội VNCH bên bờ Nam.
Hai bên nhả đạn bắn qua lại dữ dội. Dưới cơn mưa đạn đó, Tom và Kiệt d́u Trung Tá Hambleton khỏi xuồng và chạy chặng nước rút nguy hiểm cuối cùng vào hầm trú ẩn ….
Người Nhái Nguyễn Văn Kiệt và Thomas Norris cứu sống được Trung Tá Hambleton đưa về pḥng tuyến Việt Nam Cộng Hoà.
Cuộc giải cứu đă thành công vượt sức tưởng tượng của mọi người. Khi mà cả không lực Hoa Kỳ bó tay th́ những biệt kích Mỹ, Việt gan dạ cùng ḿnh đi vào trong ḷng địch, chộp các phi công ra khỏi gọng kềm của tử thần.
Câu chuyện trên, người ta có viết thành sách, Hollywood có chuyển thành phim BAT 21 vào năm 1988 với những tài tử quen thuộc thủ vai các nhân vật chính trong câu chuyện.
Vậy mà hai nhân vật “CHÍNH” nhất trong truyện là Đại Úy Hải Quân (Navy SEAL) Hoa Kỳ Thomas Norris và Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân VNCH không hề được nhắc đến.
Người nhái Nguyễn Văn Kiệt (trái) và Thomas Norris cùng các bạn
Hành vi dũng cảm, gan dạ phi thường này chỉ có một số người được biết để bảo vệ các dữ kiện quân sự liên hệ đến các chuyến giải cứu đường bộ.
Đại Úy Thomas Norris được trao tặng Huân Chương “Medal of Honor”; Huân Chương cao quư nhất của Quân Đội Hoa Kỳ trao cho những chiến sĩ đă có hành động dũng cảm phi thường.
Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Người Nhái Anh Dũng của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa, được trao tặng Huân Chương “Navy Cross”; Huân Chương cao nhất có thể trao tặng cho quân đội đồng minh.
Kiệt là người chiến sĩ Hải Quân VNCH duy nhất nhận Huân Chương “Navy Cross” trong cuộc chiến Việt Nam.
***
Đến nay đă gần 30 năm. Hồ sơ quân sự cũng đă được tiết lộ (declassify). Rồi cuối cùng những hành độngdũng cảm, anh hùng này đă được mọi người biết đến
(Sài G̣n trong tôi/ Nguyễn Phúc An Sơn t/h/ TT)
(Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Kiệt và dữ kiện trong các trang web)
Last edited by hoathienly19; 10-01-2020 at 06:48.
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Biệt Đội Thiên Nga và những chiến công thầm lặng trong cuộc chiến Việt Nam
Bà Nguyễn Thanh Thủy (trái) cùng các nữ học viên Sĩ Quan Cảnh Sát thực tập tại bến cảng Sài G̣n năm 1966
(H́nh chụp lại: Văn Lan/Người Việt)
ANAHEIM, California (NV) – Biệt Đội Thiên Nga gồm khoảng 30 người thuộc “phái yếu” rất trẻ đẹp, ai cũng học giỏi và thông minh, tất cả mọi người đều có một tên chung là Thiên Nga, với công tác đặc biệt là bí mật xâm nhập vào hàng ngũ hạ tầng cơ sở Cộng Sản để thu thập tin tức.
Năm 1964, bà Nguyễn Thanh Thủy đang theo học Khoa Dược tại Đại Học Sài G̣n phải bỏ ngang v́ sức khỏe, sau đó theo học phân khoa Chánh Trị Kinh Doanh và Sư Phạm, Viện Đại Học Đà Lạt. Tuy rất tiếc không khí và môn học đă chọn tại đây, bà phải bỏ học lần nữa v́ bị bệnh gout chịu không nổi xứ lạnh, phải trở về Sài G̣n.
Sau khi thi đậu vào Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, phải qua cuộc tuyển lựa về nhân dạng, chiều cao, gương mặt, phải đúng tiêu chuẩn. Trong những người thi đậu, cả 18 cô biên tập viên đều về Khối Đặc Biệt, với điều kiện bắt buộc là phải độc thân ít nhất hai năm từ khi vào làm việc.
“Có một số các Thiên Nga được đi ra ngoài xă hội làm việc, với danh nghĩa như vậy dễ tiếp cận các đối tượng hơn, riêng tôi về Pḥng Nghiên Cứu thuộc Khối Đặc Biệt, lư do v́ chân tôi yếu, đi đứng dễ bị nhận diện. Trong Pḥng Nghiên Cứu, tôi có bổn phận mỗi tháng phải nhận những chứng minh thư của t́nh báo viên để xác nhận lại, nh́n coi thật hay giả hoặc đọc lại những hồ sơ cũ không c̣n sử dụng nữa, nhận xét có đúng hay không. Đó là cách tập cho người biên tập viên có cái nh́n bao quát và nhận định chính xác từng chi tiết, không bỏ sót”, bà Thủy nói.
Bà Thủy kể, từ trận Mậu Thân 1968 cho đến những năm về sau, chiến tranh trở nên khốc liệt. Trong khi quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đang ngày đêm chiến đấu ngoài mặt trận, th́ bên trong nội thành Sài G̣n Gia Định nổi lên những phong trào xă hội như Phong Trào Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống, Hội Quả Phụ Tử Sĩ Việt Nam, Hội Phụ Nữ Việt Nam, Hội Nữ Phật Tử Long Hoa, Nghiệp Đoàn Bạn Hàng Các Chợ, Đoàn Thanh Sinh Công, Nhóm Công Giáo Thân Cộng của Linh Mục Chân Tính và Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan, Nhóm Phật tử Ần Quang, Hội Ni Giới Khất Sĩ, phong trào sinh viên học sinh tại các trường đại học và trung học Sài G̣n.
Những phong trào xă hội lúc bấy giờ đều do Việt Cộng giật dây, biểu t́nh chống đối chính phủ, gây rối đời sống người dân, gây bất an cho xă hội khiến một số người bất măn, gia nhập thêm vào các lực lượng chống đối này.
Thiên Nga Nguyễn Thị Bê trong vai kư giả Bạch Tuyết
Người Sài G̣n Gia Định lúc bấy giờ ai cũng biết phong trào “Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống” nổi lên gây xáo trộn rất nhiều trong xă hội do bà Ngô Bá Thành nhũ danh Phạm Thị Thanh Vân chủ trương. Bà Ngô Bá Thành từng tốt nghiệp tiến sĩ luật khoa tại Pháp, trở về nước bắt đầu có những hoạt động gây rối chống chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa từ năm 1970 đến 1975.
Tháng Tám, 1970, trong lễ ra mắt tại chùa Ấn Quang, bà Ngô Bá Thành với danh xưng “chủ tịch Ủy Ban Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống” đă kêu gọi phụ nữ Việt đ̣i quyền sống cho chồng, con em và của chính họ. Sau đó phong trào này mở rộng thành phong trào “Bảo Vệ Nhân Phẩm và Quyền Lợi Phụ Nữ,” lôi kéo rất nhiều sinh viên và chị em phụ nữ xuống đường biểu t́nh chống chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa.
Những người hưởng ứng phong trào của bà Ngô Bá Thành luôn tự xưng thuộc “Thành Phần Thứ Ba” nghĩa là không theo Cộng Sản, cũng không theo chính quyền quốc gia tại miền Nam Việt Nam. Họ luôn hướng các cuộc biểu t́nh tranh đấu tới việc đ̣i xóa bỏ chính thể Việt Nam Cộng Ḥa để lập một chính phủ khác có tự do, dân chủ và nhân quyền hơn. Tuyệt đối các phong trào này không bao giờ tố cáo tội ác của Việt Cộng.
Người của bà Ngô Bá Thành đi vào các xóm lao động, khu dân cư nghèo để phát truyền đơn, phổ biến tài liệu, sách báo do bà Thành soạn thảo in ra với nội dung lên án chính quyền Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có những ngược đăi can phạm trong nhà tù, chế độ giam giữ người tàn nhẫn, vi phạm nhân quyền…
Vào thời điểm đó, những cuộc biểu t́nh công khai trên đường phố, đô thành Sài G̣n Gia Định như một băi chiến trường, thường xuyên có những cuộc biểu t́nh của sinh viên học sinh phản chiến chống chiến tranh, kêu gọi không đi Quân Sự Học Đường, rồi nào là giới báo chí đi “ăn mày,” rồi phong trào Phật Giáo xuống đường do Ni Sư Huỳnh Liên tổ chức.
Những cuộc biểu t́nh tổ chức công khai ở nhiều địa điểm khắp nơi trong thành phố, nhiều nhất là tập trung trên đường Cường Để, quận Nhất, Sài G̣n, nơi tập trung nhiều trường đại học như Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc và tại Đại Học Luật Khoa, Đại Học Khoa Học Sài G̣n, cùng những cơ sở tôn giáo khác.
Để tiếp cận và theo dơi phong trào do bà Ngô Bá Thành chủ trương, thực chất là do Cộng Sản núp bên trong giật dây điều khiển, Biệt Đội Thiên Nga đă cài rất nhiều nhân viên của ḿnh xâm nhập vào các phong trào này, và người của Thiên Nga đă từng được các phong trào này chọn để giữ nhiều nhiệm vụ then chốt.
Riêng nữ kư giả Bạch Tuyết, thường có nhiều cuộc phỏng vấn bà Ngô Bá Thành (lúc đó là “chủ tịch Phong Trào Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống”), luôn bên cạnh bà Thành để phổ biến tin tức hoạt động của phong trào cho báo giới, nên tin tức lúc nào cũng chính xác.
Với sự tin tưởng tuyệt đối, nữ kư giả Bạch Tuyết luôn đồng hành và là cái loa phát thanh về mọi hoạt động của bà Thành, thậm chí bà được giao đánh máy những tài liệu quan trọng của các phong trào xă hội.
Sau thời gian thử thách, Thiên Nga Nguyễn Thị Bê được tin tưởng v́ làm việc cẩn mật nên được cấp thẻ kư giả chính thức, từ đó nữ kư giả Bạch Tuyết có thể xâm nhập bất cứ nơi nào có phong trào tranh đấu chống chính phủ, có thể kết nối nhiều móc xích khác, thực hiện nhiều công tác nữa cho Biệt Đội.
Một số phong trào của Việt Cộng mà kư giả Bạch Tuyết đă xâm nhập vào được như Tổng Hội Sinh Viên Sài G̣n do sinh viên y khoa Huỳnh Tấn Mẫm làm chủ tịch; Hội Sinh Viên Đại Học Vạn Hạnh do sinh viên Vơ Như Lanh thân Cộng làm chủ tịch; Tổng Hội Trung Học Sài G̣n do Lê Văn Nuôi làm chủ tịch; Tịnh Xá Ngọc Phương ở G̣ Vấp của Ni Sư Huỳnh Liên; chùa Ấn Quang ở đường Sư Vạn Hạnh, nhờ đó mà chính quyền Sài G̣n đă bẻ găy nhiều âm mưu phá hoại của Việt Cộng dưới chiêu bài các phong trào dân chúng chống chính phủ.
Thiên Nga “Tư Hương” với chức vụ của Việt Cộng
Ngày càng có nhiều cuộc biểu t́nh chống chính quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ngay tại thủ đô Sài G̣n, do Ni Sư Huỳnh Liên xách động và nhóm Phật Giáo Ấn Quang cầm đầu. Biệt Đội Thiên Nga đă gài được người nằm trong hai tổ chức tôn giáo này.
Bà Tư Hương, một nữ can phạm chính trị bị Cảnh Sát bắt giam, là cán bộ đặc công Việt Cộng nhưng không đủ gan dạ đặt chất nổ một cao ốc có người Mỹ cư ngụ trên đường Trần Hưng Đạo, Sài G̣n nên bà bị hạ tầng công tác xuống làm “binh vận.”
Sau này khi bà Tư Hương đồng ư hợp tác với phía Việt Nam Cộng Ḥa với một điều kiện là chỉ làm việc với nữ nhân viên, chứ không làm việc với nam giới. Theo yêu cầu này, bà được điều động về Biệt Đội Thiên Nga, và đă báo cáo nhiều tin tức giá trị giúp Việt Nam Cộng Ḥa phá vỡ nhiều hoạt động của Việt Cộng.
Với chức vụ huyện đội trưởng huyện G̣ Môn của Việt Cộng, Thiên Nga Tư Hương được triệu tập về họp tại mật khu Hố Ḅ, Củ Chi. Lần họp đó có rất nhiều huyện ủy ở nơi khác cùng về dự để nhận chỉ thị công tác cấp trên giao, Biệt Đội Thiên Nga được đề nghị gắn một máy phát tuyến trong đôi guốc gỗ của bà Tư Hương, để máy bay của Việt Nam Cộng Ḥa có thể nhận được tín hiệu phát ra trong từng bước đi của bà, biết chính xác vị trí nơi họp mật mà thả bom tiêu diệt tất cả những người dự họp. Nhưng kế hoạch ấy rất nguy hiểm, ảnh hưởng đến người của Việt Nam Cộng Ḥa nên không được thực hiện và bà đă báo cáo đầy đủ về nghị quyết ban hành cho các huyện ủy kỳ họp đó, gởi về Biệt Đội.
Thiên Nga Hà Thị Nhă với công tác Hải Âu
Thiên Nga Hà Thị Nhă sau khi đă xâm nhập được vào Hội Phụ Nữ Việt Nam và khối Phật Giáo Ấn Quang, Tịnh Xá Ngọc Phương của Ni Sư Huỳnh Liên, sau những ngày cùng tham gia biểu t́nh tuyệt thực trên đường phố, nếm mùi lựu đạn cay, dùi cui, cùng bị bắt bớ nên bà Nhă được tin cậy.
Bà được giao cho việc chở người già đi biểu t́nh, nhờ vậy bà đă bí mật chụp h́nh các nhân vật chủ chốt xách động, biết được địa điểm giờ giấc hoạt động của các nhóm này, giúp phá tan những âm mưu do Việt Cộng núp đằng sau giật dây.
Thiên Nga Hà Thị Nhă được móc nối vào Mật Khu Hố Ḅ, sau khi cân nhắc và đánh giá khả năng của bà, Biệt Đội quyết định thêm một bước công tác cho bà, tiếp tục đi sâu vào mật khu.
“Lúc vô mật khu học khóa hoạt động giao liên nội thành do Việt Cộng huấn luyện, chị Nhă cho biết Việt Cộng có đề cập đến và cảnh giác các khóa sinh về một tổ chức t́nh báo Sài G̣n đang hoạt động toàn nữ giới, đứng đầu là một phụ nữ trẻ đẹp có tài, có học và thông minh. Việt Cộng vẫn chưa biết rơ được danh tánh tổ chức t́nh báo ấy cũng như các nhân viên đang hoạt động. Tuy nhiên chúng xác định đây là một tổ chức t́nh báo rất nguy hiểm mà mọi người phải đề cao cảnh giác về mọi hoạt động của đội t́nh báo này để tránh lộ công tác và bị họ theo dơi,” bà Nguyễn Thanh Thủy kể.
Sau khóa học t́nh báo ở mật khu, Thiên Nga Hồ Thị Nhă được tin cậy giao nhiệm vụ đưa đón cán bộ Việt Cộng từ mật khu về hoạt động nội thành, được tiếp cận với nhóm thân cộng của hai Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan và Linh Mục Chân Tín, chuyên in ấn các sách báo chống đối dựa theo bài viết do Việt Cộng cung cấp, chống sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, đ̣i trả tự do tù chính trị, đặc biệt là tù Côn Đảo. Ngoài ra bà c̣n cung cấp nhiều tin tức về cách thức hoạt động nội tuyến của phe phá hoại do nhóm Linh Mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan cầm đầu trong các hoạt động phản chiến của sinh viên, cung cấp thuốc men quần áo cho can phạm chính trị.
Thiên Nga Diệu Ngôn với công tác Hoàng Yến
Khi đă xâm nhập được vào hoạt động xă hội của bà Ngô Bá Thành, Thiên Nga Diệu Ngôn được làm việc với bà Nguyễn Thị Mạnh Quỳnh (Bôn Quỳnh), là vợ của một đại úy quân y Việt Nam Cộng Ḥa, bà Quỳnh mượn uy tín của chồng chuyên đi phát thuốc trong những xóm lao động nghèo, nên ghi nhận được hết những cơ sở bà Quỳnh đă tiếp xúc, thực chất đó là những cơ sở Việt Cộng trong nội thành.
Sau đó bà Quỳnh thấy bị động nên giao cho Thiên Nga Diệu Ngôn thay ḿnh trong những công tác xă hội nên chị Diệu Ngôn biết sâu thêm nhiều cơ sở của Việt Cộng, giúp phá vỡ nhiều ổ hoạt động nội thành.
Văn Lan
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến – Cửa Việt, Một Chiến Thắng Vẻ Vang và Ngậm Ngùi
Lực Luợng Đặc Nhiệm Tango của Sư Đoàn TQLC và Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hoà đă tái chiếm Hải Cảng Cửa Việt, Quảng Trị do quân cộng sản Bắc Việt xâm lược chiếm giữ, hai phút truớc giờ ngưng bắn là 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973.
Là một nguời đă từng tham chiến trong trận đánh này, tôi xin kính mời Quư Vị cùng chúng tôi hồi tưởng lại những ǵ không thể nào quên được của những ngày cuối tháng 1 và đầu tháng 2 của năm 1973.
Ngày 23 tháng 1 năm 1973, Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên chính thức đổi quân cho Tiểu Đoàn 9 Mănh Hổ tại Gia Đẳng 3, Đông Bắc Quảng Trị và cách Cửa Việt 9 cây số. Riêng Đại Đội 1 Trâu Điên của tôi th́ nhận bàn giao từ Đại Đội 3 Mănh Hổ của Tầm Dương Đại Uư Đoàn Văn Tịnh Khoá Đàn Anh của tôi 22A Vơ Bị Đà Lạt. Cuộc đổi quân diễn ra vào ban đêm v́ chúng tôi không muốn là mục tiêu cho các loại cối địch mà đáng nói nhất là miếng mồi ngon cho bọn chuyên bắn tỉa ngay đầu. Người viết đến đây xin đuợc tuởng nhớ đến một Nguời đàn Em Khoá 24 Vơ Bị Đà Lạt, Cố Trung Uư Vàng Huy Luyến đă hy sinh v́ đạn bắn tỉa v́ rớt mắt kiếng đang khi tấn công chiếm chốt địch quân trong khi Niên Truởng Tầm Dương đang đi phép ngoài Huế t́m mua tạm hai bông mai để sẵn sàng hôm sau đem về vùng hành quân để rửa lon cho thằng Em xấu số của ḿnh!
Ngày 24 tháng 1 năm 1973, Đại Đội 1 Trâu Điên bắt đầu mở những cuộc tấn công chớp nhoáng vào pḥng tuyến dày dặc chốt kiềng của địch. Tuyến pḥng thủ của quân cộng sản xâm lược gồm 3 chốt một đứng vững như kiềng 3 chân để hổ trợ lẫn nhau bằng súng AK với B40 và hàng rào súng cối tiếp cận. Nhưng đáng kể vẫn là họng súng của những tên bắn tỉa chuyên nghiệp có sổ tay ghi nhận đang hoàng. Tối ngày 25 tháng 1 năm 1973, dưới quyền chỉ huy của Sơn Tây Trung Uư Phạm Ngọc Sương Đại Đội phó, Khóa 24 Đà Lạt, bằng lối đánh nghi binh và dương Đông kích Tây, hai Trung Đội 12 của Thiếu Uư Trần Gia Tăng Khoá 25 Đà Lạt mới ra Truờng và Trung Đội 16 của Chuẩn Uư Nguyễn Kính Khoá 1/72 Thủ Đức đă đồng loạt xung phong tràn ngập pḥng tuyến địch sau những tràng pháo 105 ly vừa delay và vừa nổ chụp lên đầu lũ chuột. Quân ta đă hạ sát 15 tên tại chỗ và tịch thu 11 AK, 3 B40, 1 súng truờng bắn của của Hung Gia Lợi có máy nhắm và 5 thùng lương khô đang ăn giở. Bên ta có 5 bị thuong nhẹ và chỉ có Chuẩn Uư Nguyễn Kính là cần tản thương.
Chiều ngày 26 tháng 1 năm 1973, Đại Đội tôi tiếp nhận từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn năm thùng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ may bằng thứ vải thưa để may màn hay mùng ngủ. Sau này thấy mà buồn 5 phút v́ cờ "phỏng giái" của quân cộng sản Bắc Việt xâm lược th́ lại được may bằng vải popeline rất bền và đứng vững với thời gian. Tiền may Cờ để đâu xin hỏi Ông Hoàng Đức Nhă Tổng Uỷ Truởng Dân Vận Chiêu Hồi của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà???
Bẩy giờ sáng ngày 27 tháng 1 năm 1973, Lực Luợng Đặc Nhiệm Tango Tiền Phương duới quyền chỉ huy của Tiền Giang Thiếu Tá Phạm Văn Tiền Khoá 20 Dalat, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 Ḱnh Ngư gồm các Chi Đoàn Chiến Xa M 48, M 41, M 113 mà Thiết Đoàn 20 là nổ lực chính với hai Đại Đội 3 Ḱnh Ngư của Trung Uư Mai Văn Hiếu, Khoá 23 Dalat và Đại Đội 4 Ḱnh Ngư của Trung Uư Duong Tấn Tuớc cũng Khoá 23 Đà Lạt tùng thiết đă bất ngờ vuợt tuyến xuất phát ồ ạt tiến lên mục tiêu Cửa Việt. Nh́n đoàn Chiến Xa tiến quân mở hết hoả lực tối đa về phiá truớc tôi cứ nghĩ ḿnh đang xem lại cuốn phim Đồng Minh đổ bộ Normandie đánh đuổi Phát Xít Đức vào ngày 6 tháng 6 năm 1944 tại Miền Bắc Nước Pháp. Sau đó là đợt tiến quân của Đại Đội 1 Trâu Điên để thu dọn chiến truờng. V́ quá bất ngờ cho nên địch trở tay không kịp mà cũng chẳng biết chém vè đi hướng nào cho nên lũ chuột đành nằm im trong hang chốt chờ đầu hàng. Qua lục soát, các Trung Đội liên tục bắt sống tù binh và tịch thu rất nhiều chiến lợi phẩm đủ loại! Đă có tới 60 tù binh trong đó riêng Bộ Chỉ Huy Đại Đội cũng đa tóm đuợc cả chục tên. Qua cung từ tại chỗ các tù binh đều khai “là đang học cấp 3 tại Hà Nội và Hải Pḥng th́ bị buộc bỏ học vào Nam tiếp thu vùng giải phóng. Có nghe Lính Thuỷ Đánh Bộ sừng sỏ lắm, nếu bắt đuợc tù binh là mổ bụng lấy gan ăn tươi nuốt sống ngay?” Bởi vậy đă có vài tù binh c̣n quá trẻ lại quá lo sợ cho nên đă bôi thuốc đỏ đầy ḿnh và chui đầu vào cát giả chết!
Đang báo cáo với Tiểu Đoàn để giải giao số tù binh và vơ khí th́ một tiếng nổ lớn từ phiá Trung Đội 16. Chuẩn Uư Hà Thế Dơn Trung Đội Truởng 16 báo cáo cho biết đă có vài tên địch trá hàng nên khi quân ta xông đến để tuớc đoạt vũ khí th́ chúng cho ḿn nổ gây tử thương cho Hạ Sĩ Lê Sanh Thạch và 3 Quân nhân khác. Thế là tôi gọi máy cho các Thẩm Quyền là kể từ bây giờ Đại Đội không muốn nhận tù binh nữa! Viết đến đây tôi lại nhớ đến bài "L’Humanité" của một nhà văn hồi c̣n Trung Học với phần mở đầu "Tu seras soldat un jour, si t’arrives de te battre tu te battras en conscience. Cela,c’ est ton devoir!" Và ḷng nhân đạo chỉ có đuợc sau khi cuộc chiến thực sự chấm dứt phải không thưa Quư Vị?
Đoàn Chiến Xa qua rồi th́ bây giờ là mưa pháo 130 ly dành cho Đại Đội 1 Trâu Điên của tôi trên đường tiến quân càn quét mục tiêu. Không hiểu những tên tiền sát địch nằm sẵn đâu đây mà sao chúng điều chỉnh tác xạ chính xác đến thế? Trái đầu tiên nổ trước mặt 100 mét, trái thứ nh́ nổ sau lưng 100 mét, trái thứ ba nổ bên phải 50 mét... tôi chưa kịp nói hết câu là địch đang chỉnh lồng khung mà coi chừng trái thứ tư đó th́ một tiếng nổ vang hất tôi văng xa gần 5 mét...Tôi lồm cồm ngồi dậy với mặt mũi lọ lem và quần áo đầy khói bụi và nặc mùi thuốc súng th́ thấy Thiếu Uư Nguyễn Tấn Tài Tiền Sát Viên Nỏ Thần đă bị thương lủng ruột nằm bất động bên hai đệ tử đă hy sinh. C̣n hai nguời mang máy cho tôi th́ một gẫy nát chân trái và một bị miểng 130 ly chui qua má cắt đứt phân nửa cái luỡi! Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn cứ tuởng tôi đă hy sinh chứ đâu ngờ tôi một ḿnh mang cả ba máy tiếp tục điều động Đại Đội tiến quân...
Đến 6 giờ chiền ngày 27 tháng 1 năm 1973, th́ Đại Đội tôi đă tới sát chân cao điểm đồi 11 và Trung Đội 12 báo cáo cho biết là có một chốt địch khá lớn tại cao điểm chạy dài ra tới bờ biển này. Tôi ra lệnh khai triển ngay công sự pḥng thủ, đưa các toán tiền đồn ra xa và giăng đồ chơi claymore, ráng gài và lựu đạn ra tối đa. Sau khi báo cáo t́nh h́nh về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Trung Uư Trần Đinh Công Khoá 26 Thủ Đức sẽ điều động Đại Đội 4 Trâu Điên thay Đại Đội tôi theo đoàn xe GMC lên tăng cường cho Cửa Việt.
Đúng 7 giờ 58 phút có nghiă là chỉ 2 phút truớc giờ ngưng bắn có hiệu lực là đúng 8 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, Lực Luợng Đặc nhiệm Tango đă hoàn toàn làm chủ t́nh thế tại căn cứ Hải Quân Cửa Việt sau 25 giờ quần thảo dữ dội với địch. Giờ phút "hoà giải, hoà hợp và ngưng bắn đă đến" Binh Sĩ đôi bên ăn mừng "hoà b́nh vội vă" mang cà phê Sài G̣n với thuốc lá Capstan và kẹo sưă Hà Nội ra mời nhau truớc sự cay cú nghẹn ngào uất hận của Đại Tuớng Vơ Nguyên Giáp Uỷ Viên Bộ chính trị trung ương đảng, Bí thư Quân uỷ trung ương kiêm Bộ truởng Quốc pḥng Nuớc việt cộng nhà ta. Quả vậy, Vơ Nguyên Giáp đă ra lệnh cho Trung Tuớng Lê Trọng Tấn đưa các Trung Đoàn 18, 995, và sừng sỏ nhất vẫn là 101 của Đại Tá Thân Trọng. Một Sư Đoàn Điện Biên 325 âm thầm chuẩn bị sẵn sàng tùng thiết Trung Đoàn 203 Xe tăng chờ lệnh. Trong khi đó tại cao điểm 11, tôi đă tiến vào và tiếp xúc đuợc với viên Chính uỷ Trung Đoàn Hiệp Định 27 của quân cộng sản xâm luợc khi đi thăm các đồng chí bộ đội của y. Tại cao điểm này tôi hơi giật ḿnh với cấp số hon một Tiểu Đoàn địch cùng hàng chục xe tăng T 54 và pḥng không 37 ly bảo vệ. Nếu đêm qua có đụng độ th́ Đại Đội tôi không biết t́nh h́nh sẽ thế nào đây? Điểm cần lưu ư là qua điện đàm, tôi đă nhiều lần đề cập tới Lực luợng địch tại cao điểm này với Hà Nội 819 Tiểu Đoàn Trưởng Trâu Điên của tôi là chắc chắn quân cộng sản xâm luợc không thế nào bỏ rơi cao điểm đuợc. Cho nên ta phải coi chừng chúng sẽ phản công để bắt tay với đưá con này. Nhưng rất tiếc ư kiến của một viên Đại Đội Trưởng thấp cổ bé miệng không đáng để các Đại Bàng lưu tâm suy nghĩ chăng???
Ngày 29 tháng 1 năm 1973, thấy t́nh h́nh có vẻ căng thẳng mà cộng quân có thể phản kích bất cứ lúc nào nên cánh phó Tiểu Đoàn 9 Mănh Hổ do Cam Ranh Thiếu Tá Phạm Cang Khoá 20 Dalat cùng Phán mập Khoá 25 Thủ Đức Đại Đội Truởng đă tăng viện đến Đại Đội tôi mà trên tay các Anh c̣n vương vấn quà uỷ lạo của Em gái hậu phương Lê Bảo Tịnh Sài G̣n. Cho đến chiều th́ Cánh Phó Mănh Hổ đuợc lệnh di chuyển đi chỗ khác.
Ngày 30 tháng 1 năm 1973, t́nh h́nh lại trở nên đen tối truớc áp lực tấn công thăm ḍ của địch, Đại Đội 2 Trâu Điên của Đại Uư Từ Đức Thọ lại được lệnh tùng thiết Chi Đoàn 1/17 Chiến xa M 41 của Đại Uư Nguyễn Quang Trung kéo lên tăng cuờng cho Lực Luợng Tango tại Cửa Việt. Khi đoàn chiến xa đến cao điểm 11 th́ bị chốt địch chặn lại, nhưng trước hoả lực mạnh mẽ của các xe tăng M 41, địch phải chấp nhận cho đi. Tưởng cũng nên nhắc nhở là sau khi Quân ta chiếm đuợc Cửa Việt rồi th́ địch chỉ cho tiếp tế lương thực mà hoàn toàn không cho tiếp tế đạn dược và thuốc men từ tuyến sau lên Cửa Việt.
Sáng ngày 31 tháng giêng năm 1973, địch đă dùng đại pháo 130 ly phối hợp với các loại hoả tiễn 122 ly, 107 ly pháo kích liên tục vào căn cứ Hải Quân Cửa Việt rồi dùng xe tăng có bộ đội tùng thiết mạnh mẽ tấn công vào tuyến pḥng thủ của ta đặc biệt là căn cứ Hải Quân do Đại Đội 2 Trâu Điên trấn giữ. Ngay từ giờ phút đầu xa chiến, Đại Uư Lê Bá Nam Khoá 20 Thủ Đức, Chi Đoàn Trưởng 2/20 Chiến xa M 48 đă anh dũng chỉ huy Chi Đoàn phản công mănh liệt và bắn cháy một số xe tăng T 54 và PT 76 của địch khiến chúng bị rối loạn và tan ră đội h́nh tấn công. Nhưng chết lớp này th́ c̣n nhiều lớp khác, chúng nhào lên cố tiêu diệt lực lượng Tango của ta. Áp lực và hoả lực địch mạnh đến như vậy trong khi kế hoạch hoả yểm của ta th́ chỉ trông vào 3 Tiểu Đoàn Pháo cơ hữu và 1 Pháo Đội 155 ly của Tiểu Đoàn 101 Pháo Cơ Động của Quân Đoàn I. Hải Quân Việt Nam có xuất hiện nhưng chỉ lảng vảng ngoài khơi rồi biến mất. Cũng không thấy sự can thiệp của Không Quân? Các Phi Đội Phản lực A37 hay F5E sao không có mặt để trả đuă cho việc trắng trợn vi phạm lệnh ngưng bắn của quân xâm luợc việt cộng đúng như Diễn văn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu "sắt máu và hiếu chiến" mà Ông ta đă đọc trong ngày 28 tháng 1 năm 1973 là "địch dùng súng trường Ta dùng súng máy, địch dùng súng máy Ta dùng đại bác, địch dùng đại pháo Ta dùng bom dội lên đầu chúng!" Cửa Việt đang thực sự lâm nguy mà sao không có một Ai dám ra lệnh dùng bom dội lên đầu chúng thưa Tổng Thống? Có phải nói dzậy mà không phải dzậy không thưa Vị Tổng Tu Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chúng ta, một Quân Đội đang từ từ bị Đồng Minh Hoa Kỳ bỏ rơi từ cái bản hiệp định khốn nạn và trớ trêu này?
Sau 24 giờ tử thủ cuối cùng Thiếu Tá Phạm Văn Tiền phải tự ḿnh quyết định là vưà chống trả, vưà triệt thoái lui Quân về phiá sau để bảo toàn Lực Luợng v́ chẳng có một ai dám lên tiếng ngoài hành vi tiêu cực là chờ Uỷ Ban Liên Hợp bốn bên đến giải quyết! Chính Thiếu Tá Trần Văn Hợp Tiểu Đoàn Trưởng Trâu Điên đă ra lệnh cho tôi chặn Lực Lượng di tản lại để cùng thiết lập một pḥng tuyến chặn địch không cho chúng tiếp tục đuổi theo nhưng tôi đă không đồng ư chuyện này v́ tôi tin Đại Đội tôi đủ sức chặn địch rồi. Chính Trung Đội 12 của Thiếu Uư Tăng đă dùng hoả tiễn 66 ly M72 bắn cháy 5 xe tăng T 54 đi đầu của địch làm chúng khựng lại. Tôi không ngờ tinh thần diệt tăng địch của Lính Trâu Điên lại cao ṿi vọi như sóng thần đến thế? Bằng chứng là 5 con cua của địch không những đă bị Trung Đội 12 hoả thiêu rồi mà c̣n bị các Trung Đội 14, 16, 18 thi nhau rang đi rang lại nhiếu lần. Nhớ lại vào tháng 7 năm 1972 tại bờ biển Mỹ Thuỷ, Hải Lăng Quảng Trị suưt tư nưă là Lính Trâu Điên hăm hở chờ đợi rang muối trọn Chi Đoàn Thiết Quân Vận của một Đơn Vị Bạn rồi!
Sau khi Lực Luợng Tango triệt thoái về phiá sau an toàn th́ 1 giờ đêm rạng sáng ngày 1 tháng 2 năm 1973, Hà Nội 819 Tiểu Đoàn Truởng Trâu Điên ra lệnh cho tôi bỏ vị trí rút về sau 3 cây số và đóng quân tại một vị trí pháo 155 ly đă bị phản pháo cháy rụi hồi nào. Có lẽ Đại Bàng 819 lo sợ mất tôi nưă hay sao đây?
Sáng ngày 1 tháng 2 năm 1973, Sao Mai Mai Văn Hiếu nguời bạn cùng Khoá 23 Dalat với tôi đă dẫn Đại Đội 3 Ḱnh Ngư đến hoán đổi vị trí để tôi lui về Gia Đẳng 1 bảo vệ Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc nhiệm Tango của Đại Tá Nguyễn Thành Trí Tư Lệnh Phó Sư Đoàn trong khi cả Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên đuợc di chuyển về Bộ Tu Lệnh Sư Đoàn tại Hương Điền để bổ sung quân số cho hai Đại Đội 2 và 4.
Sáng ngày mùng 1 Tết Quư Sửu 1973, Tuớng Bùi Thế Lân đă đáp trực thăng xuống Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Tango để chúc Tết và uỷ lạo Lực Lượng. Đứng trong hàng quân tôi nghe Lạng Sơn phát biểu: "Tuy chúng ta không thành công về mặt Chiến Lược, nhưng chúng ta đă thành công về mặt Chính Lược!" Quả thật tôi muốn dùng lời nói này để xin đuợc thông cảm và chia xẻ buồn nhiều hơn vui đối với Thiếu Tá Phạm Văn Tiền, một Niên Truởng và cũng là một cấp Chỉ Huy đầy dũng cảm và đáng kính của tôi!
Để chấm dứt bài "Cửa Việt, một chiến thắng vẻ vang và ngậm ngùi này" xin Qúy Vị chúng ta hăy cùng nhau dành một phút thành kính tuởng nhớ đến tất cả các Anh Hùng TQLC và Thiết Giáp đă Anh Dũng hy sinh trong trận đánh tái chiếm Cửa Việt Lịch sử này!
West San Jose, CA
Trân trọng
Mũ Xanh Trần Văn Loan
Trâu Điên 117
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 4 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
Giữa tháng 4 năm 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đă xảy ra bên ḍng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng tây nam.
Trong hai ngày 14 và 15 tháng 4 năm 1974, Tiểu Đoàn 82 BĐQ/QLVNCH bị hai Trung Đoàn 48 và 64 của Sư Đoàn 320 Cộng Sản Bắc Việt xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người.
Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong.
Cuối cùng, địch đă dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm.
Trưa 15 tháng 4 năm 1974 Cộng-Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711.
Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu Đoàn 82 BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng.
Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đă từ chối tản thương, họ đă đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công.
Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu Đoàn 82 BĐQ trừ (-) đă trở lại trận địa để đánh một cú hồi mă cực kỳ dũng mănh.
Dạ chiến là sở trường của Biệt Động Quân Plei-Me , v́ thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng-Sản bám trụ đă bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ.
Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch.
Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận.
Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá).
Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Đồi Thịt Bằm”.
Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mănh liệt như một cơn dông mùa hè. Rồi, t́nh h́nh lắng dịu, địch và ta lại gh́m quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù .
Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như ḿnh là một tiểu tướng cầm quân thời Tam-Quốc. Tôi đă phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của ḿnh để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị ḿnh.
Tôi biết rơ Sư Đoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản.
Địch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư Đoàn 320 Điện-Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh.
Trong thời gian này, có một mẩu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320 đă cảnh giác các đơn vị dưới quyền :
- “ Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với Thằng Hai Nâu (?)”.
Pḥng 7 giải mă, cho tôi biết địch gọi TĐ82 BĐQ là “Thằng Hai Nâu”.
Một ngày, giữa tháng 6 năm 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng nam núi Chư Gô th́ được thông báo cái điện thứ nh́ :
“ Thằng Hai Nâu đang hoạt động dă ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó !”
- Điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320 CSBV ra lệnh cho Trung Đoàn 48 SĐ320.
Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nḥm, tôi thấy rơ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày.
H́nh như trong đêm, cả trăm người đă đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ đông bắc xuống tây nam, sát chân núi Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi.
Tôi ra lệnh cho Đại Úy Quách Cơ B́nh (K22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Suốt ngày hôm đó, tôi đă dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối.
Quân dă ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú B́nh.
Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại Úy B́nh, th́ từ biên giới Miên, địch đă nă khoảng hai trăm trái đại bác vào trại.
Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đă bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra.
Hụt ăn, địch gỡ gạc ! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nh́ gốc Chợ-Lớn bị tử thương. Rồi t́nh h́nh lại yên…
Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng-Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngă ba làng Xổm (Plei Xôme).
Làng Xổm nằm về hướng bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đă bị bỏ hoang từ lâu.
Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung Đoàn 42 Bộ Binh trừ (-) và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
Trung Tá Nguyễn Thanh Danh (K19 VB) Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 42 Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh.
Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt-Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng bắc.
Chuyện không thể nói trên vô tuyến, v́ vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung Tá Danh.
Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung Tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đă gặp Đại Tá Nguyễn Hữu Thông (K16VB) Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 42 SĐ22 Bộ Binh đang có mặt.
Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của niên trưởng Thông.
Niên trưởng Thông hỏi:
-Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần ǵ vậy em?
Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho niên trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ư đồ hành động của tôi, rồi đề nghị :
-Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về bắc, để tôi dễ bề xoay trở.
Đại Tá Thông đồng ư ngay :
-Okay, Làm đi ! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú…
Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày v́ chú Quách Cơ B́nh được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại Úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại.
Toán viễn thám của Trung Sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ Sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng.
Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại Đội 1/82.
Khi tôi đă hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về pḥng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng tây bắc Plei-Me.
Tôi đă dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân c̣n lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thày tṛ tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.
Tôi chọn “Vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngă ba Tỉnh Lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên b́a rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh Lộ 6C.
Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đă gài xong. Hướng nổ của hai quả ḿn đánh chéo nhau thành h́nh chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn ch́ của Claymore sẽ giao nhau chỗ này.
Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm-Vương đă gọi.
Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự.
Ngày thứ nh́ trôi qua, vô sự.
Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu…
Binh nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi,
- Thiếu Tá ! Có tiếng xe !
– Tao có nghe ǵ đâu?
Tôi quay sang hỏi chú Chi :
- Ê ! Chi ! Có nghe tiếng ǵ không ?
Trung Sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu,
- Em nghe rơ có tiếng máy xe mà ông Thiếu Tá ! Đó ! Đó ! Nghe rơ chưa?
- Ừ ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm…
Rừng già xanh ŕ trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát.
Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rơ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.
Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh :
- Chuẩn bị đánh tank ! Đánh gục chiếc đầu . Xong là rút liền !
Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước.
Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên b́a đường, ḍm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép ḿnh trong cỏ, đợi chờ…
Tiếng động cơ đă gầm gừ dưới chân dốc.
- “Ỉm! Ỉm!…́…́…..Ỉm!…” đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đă có dịp nghe tank địch chạy sát bên ḿnh vài lần.
Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển c̣n gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng “két! két!”
Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Ṿm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Th́ ra đó chỉ là một chiếc xe be ! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không.
Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi.
Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nh́ sau lưng. V́ phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank.
Chúng tôi thở phào, nhẹ nhơm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc.
Chú Ba lầm bầm :
“ Đồ phá thối !”
Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói.
Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn bắc của trại.
Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh Lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc v́ xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku.
Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt-Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo.
Qua đoạn đường đèo ngă ba làng Xổm th́ chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong Câu Lạc Bộ tiểu đoàn.
- Tôi là người quen của Trung Tá Danh…
Bà chủ xe be khoe với tôi.
- Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn ? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng-Sản à ?
- Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rơ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.
- À ra thế !
Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết ǵ hơn. Tôi vào máy, gọi Trung Tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt d́u nhau về qua căn cứ 711.
Ngày kế tiếp…
Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên.
“Oách! Oách! Oách!…Quàng! Quàng! Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.
“K’rọc!…K’rọc!…”- “Hừm!…Hừm!..”
Có người đang đi tới ! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá !
Con cóc Claymore trên tay tôi đă sẵn sàng.
Tiếng “K’rọc! …K’rọc! …” – “Hừm! …Hừm! …” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa.
“K’rọc! …K’rọc! …” – “Hừm! …Hừm! …”
Trong nắng xế tà, một đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng ph́ phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!…Hừm!..” C̣n tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước.
Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường ṃn nhập vào Tỉnh Lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng.
Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O…o…o…” sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi.
Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra ḅ, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày ṿ, không dám găi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.
Chợt rừng chiều xào xạc…
“Oách! Oách! Oách!…Quàng! Quàng! Quạc! …Ụt! Ụt! Ụt!…” Hướng tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn ră, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường,
“Lộp cộp!…Lộp cộp!…Lộp cộp!…”
Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.
“Lộp cộp!…Lộp cộp!…Lộp cộp!…”
Một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc gịng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai.
Tôi nghiến răng, bấm c̣ con cóc,
“K’rạch!”
Con cóc đă kích hỏa, nhưng quả ḿn không nổ !
Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời.
“Hí!… Hí!… Hí!…í!…í!…í!…”
Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí. Một cái bóng đen bay ṿng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường.
“Oành!”
Quả Claymore của Hạ Sĩ Ba nổ! Ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá găy. Tiếp đó,
“Rẹt! Rẹt! Rẹt!…”
Bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất.
Con chiến mă quằn quại trên mặt đường xe be, miệng ph́ ph́ sùi bọt.
Tôi và Trung Sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ Sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Ḿnh ngựa bị ghim đầy vết ḿn Claymore và vết đạn M16.
Nhưng trong ṿng bán kính một trăm mét, chúng tôi không t́m ra dấu tích của chủ nó. Đại Đội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Đại Việt đang hoạt động vùng tây bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.
Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng bắc con đường, chúng tôi t́m được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đă thoát thân thẳng về hướng bắc.
Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi th́ phát giác ra rằng, sức điện đă làm đứt một trong hai sợi dây ch́ gắn vào đầu ng̣i nổ, khiến ḍng điện bị ngắt, trái ḿn câm.
Chú Chi càm ràm:
“Chắc thằng ‘cội’ này có bùa!…”
Ít lâu sau…
Trung Đoàn 42 SĐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về B́nh-Định, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên Đoàn 24 BĐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TĐ 82 BĐQ được thu hẹp lại vể hướng nam hai cây số.
Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TĐ81 BĐQ. Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân đă đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 81BĐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngă ba làng Xổm.
Trưa 27 tháng 7 năm 1974 chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung Đoàn 64 SĐ 320 CSBV hướng bắc, Trung Đoàn 48 SĐ 320 CSBV hướng nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Động Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh Lộ 6C.
Sau ḥa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đă được các đơn vị Cộng-Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả.
Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng th́ bộ binh địch đă ở kế bên ta rồi.
Ta chưa kịp chấn chỉnh đội h́nh th́ địch đă xung phong. V́ vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt-Cộng đă chặt đầu Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TĐ81 BĐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đă bắt làm tù binh ông tiểu đoàn phó TĐ81 BĐQ là Thiếu Tá Trần Văn Ngọc (K18 VB).
Trong khi đó, tại mặt trận phía nam, Trung Đoàn 48 SĐ 320 của địch không tiến được bước nào.
Suốt ngày 27 tháng 7 năm 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám.
Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu th́ khả năng tác chiến đă giảm đi nhiều.
Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người.
Trước đó, pháo địch nổ dày dặc trên mặt Tỉnh Lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, v́ quân mở đường của TĐ82 BĐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào.
Cách bố quân dă ngoại đặc biệt lạ lùng này của TĐ82 BĐQ đă khiến Trung Đoàn 48 SĐ 320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây-Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.
Những ngày sau đó, tiền đồn Plei-Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến.
Hết Trung Đoàn 48 SĐ 320 đến Trung Đoàn 64 SĐ 320, rồi tới Trung đoàn 26 Địa Phương của Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai pḥng thủ Plei-Me.
Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư Đoàn Điện-Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên pḥng này. Trận đánh đă kéo dài ba mươi tư ngày đêm.
Sáng ngày 2 tháng 9 năm 1974 chiến dịch vây hăm Plei-Me chấm dứt.
Thêm một lần đụng độ, “Thằng Hai Nâu” đă chứng tỏ cho địch biết rằng :
Ở Tây-Nguyên, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại.
Trung Đoàn 48 SĐ 320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.
Tới đầu năm 1975, Trung Đoàn 48 Sư Đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban-Mê-Thuột.
Lúc đó Tiểu Đoàn 82 BĐQ đă chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng-Đức. V́ thế “Thằng Hai Nâu” và những đơn vị trực thuộc SĐ 320 Điện-Biên CSBV không c̣n dịp nào chạm mặt nhau nữa…
C̣n tiếp ,
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2, Sàig̣n.
Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng-Sản Bắc-Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt.
Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ.
Xe thứ nh́ có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc-Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngơ TK9, t́m địa chỉ.
Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi,
- Phải nhà này có Vương Mộng Long không?
Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi pḥng khách. Tôi ở nhà một ḿnh. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban-Mê-Thuột để t́m kiếm vợ con tôi.
- Phải ! Các ông cần ǵ ?
- Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.
Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh ḿnh, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời,
- Tôi đây !
- À ! Anh Long đây hử ? Anh Long có mạnh khỏe không ?
- Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.
Ông thượng tá Quân-Đội Bắc-Việt quan sát tôi vài giây rồi nói :
- Vất vả hai ngày nay tôi mới t́m được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui ḷng tiếp tôi hay không ?
- Vâng, mời ông vào nhà.
Để hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm ṭ ṃ bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn pḥng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ.
Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, ch́a tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ lớ Thượng-Du Bắc-Việt, ông ta mở lời :
– Anh Long có nhận ra tôi không ?
– Xin lỗi ! Ông là ai ? Tôi không nhớ đă gặp ông lúc nào.
- Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây-Nguyên cách đây một năm.
- À…
- Tháng Sáu năm ngoái, anh đă phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút .Thế nào, có được không?
-Ư…ư.. ông cứ tự nhiên…
Đôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà.
Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc ?
- Năm nào gia đ́nh tôi vào Nam?
- Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao ?
- Tôi t́nh nguyện đi lính Ngụy hay đă bị bắt lính, động viên ?
- Bao nhiêu lần thương tật ?
- Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương ?
Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của ḿnh không có ư tầm thù. V́ thế, ḷng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại.
Người sĩ quan Bắc-Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Điện-Biên-Phủ, ở Quảng -Trị, ở Tây-Nguyên.
Ông khách thao thao :
- Tớ là con quan Lang xứ Cao-Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây.
Tớ phục vụ Sư Đoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Đánh Điện-Biên tớ làm đại đội trưởng.
Tới thời đi B, xâm nhập Miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy ḥa b́nh…
Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945 ông học trường Tây ở Hà-Nội. Ông sắp thi “Diplôme” th́ Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội.
Ông kể chuyện đánh thắng Điện-Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân-Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suưt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư đoàn 320 Điện-Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường B́nh-Định, một nửa xuôi Jarai.
Không ảnh trại Bến Hét – Tiền đồn Bến Hét trước khi trận đánh căn cứ Bến Hét 1972 trong chiến tranh Việt Nam – Aerial view of Ben Het Camp 1972 in Viet Nam war
Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng tháng Tư năm 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suưt tí nữa ông ta đă bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đă thua tôi (TĐ82 BĐQ).
Khi kể tới trận vây đồn Plei-Me 34 ngày đêm (tháng 7 và 8 năm 1974) ông ta la lớn :
-Đúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng ĺ như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng ! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc ! Gớm thật!
Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nh́n tôi, tán dương,
– Ĺ thật ! Tớ khen cậu đó !
Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn- Ma -Thuột tháng Ba năm 1975 và màn bôn tập Quân Đoàn II Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn trưởng CSBV đă được thăng cấp thượng tá.
Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu.
Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đă ba lần, ông ta thắc mắc,
– Động cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, ĺ lợm như thế ?
Tôi chỉ trả lời thật gọn,
– V́ chữ hiếu !
Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa măn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.
Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về.
Nơi bực cửa, khách nh́n vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm,
– Tôi c̣n ở Sàig̣n ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng :
Chúng ta đă đánh nhau hai lần trên Tây-Nguyên, hai lần bất phân thắng bại . Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, v́ anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi.
Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng th́ tôi tối, anh tối th́ tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một v́ sao rụng.
– Cám ơn ông.
Vào lúc người sĩ quan Cộng-Sản cất bước, tôi cố nói vói theo :
– Ở suối Mé ông giết hụt tôi . Ở làng Xổm tôi giết hụt ông.Thế là ḥa. C̣n trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, th́ ông thua tôi rành rành.
Về cái vụ Ban-Mê-Thuột, tôi công nhận, ông đă chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban-Mê-Thuột không phải là tôi.
– Anh nói đúng.Trong trận Buôn-Ma-Thuột không có “Thằng Hai Nâu”. Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh…
Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng.
Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam và người khách không mời rời con hẻm.
Đầu năm 1988 tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm-Tân, Thuận-Hải.
Tháng 11 năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa-Kỳ tỵ nạn.
Từ tháng Giêng năm 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Đỗ Dũng (KQ), Lư Ngọc Châu (BĐQ) vân vân, đều đă lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn.
Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn Thanh Danh (K19VB) và Lê Văn Để (BĐQ) vẫn bặt vô âm tín.
Tháng 8 năm 1990 tôi tới sở Công-An Quận 1 Thành Phố Hồ Chí Minh để hỏi hồ sơ của ḿnh th́ được biết, cô Huyền, người nữ Công-An phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh-Văn kéo dài nửa năm.
Một anh bạn gốc Không-Quân đă giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại-Vụ. Anh Danh và anh Để cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà-Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà-Nội nộp cho Pḥng Xuất Cảnh Bộ Ngoại-Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.
Hà-Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, t́m dư hương ngày cũ.
Hà Nội - Sài G̣n sau tháng 4- 1975 năm 1975
Tôi đạp xe một ṿng quanh Sàig̣n, gặp người quen, xin viện trợ. Trung Tá Bùi Văn Huấn, cựu Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 22 Biệt Động Quân giúp tôi 100 ngh́n đồng.
Bạn tôi, (TQLC) Mai Văn Tấn (K21VB) cho tôi 100 ngh́n đồng.
Và anh Vũ Văn Ích, một người anh con d́ của tôi cũng giúp tôi 100 ngh́n đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà-Nội.
Hà-Nội, một ngày tháng 8 năm 1990…
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ.
Tôi bước vội qua đường, v́ nh́n thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn b́nh dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đă đứng chờ, dơ tay ngoắc,
– T́m nhà trọ phải không ?
– Phải…
– Pḥng ngủ quốc doanh bẩy ngh́n một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm ngh́n một đêm, nước nôi thả cửa…
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào pḥng ngủ quốc doanh.
– Một người, bẩy ngh́n một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba ngh́n…
Tiếp viên pḥng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát.
Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đă chờ sẵn,
– Bên kia đường…theo tôi…
Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn pḥng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn pḥng bên trái cư xá,
– Nhà tôi đây…
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ,
– Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, ch́a khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại.
Tắm giặt th́ ra đằng sau nhà, có mười pḥng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán th́ thôi…
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dăy mười pḥng tắm có ṿi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi.
Tôi tắm giặt xong, quay về buồng th́ ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nh́ của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm ngh́n một đêm, rẻ chán !
Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành h́nh chữ “U”. Ba người nằm trong một căn pḥng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rơ…
– Này ! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về ? Ông chủ nhà gợi chuyện.
– Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàig̣n, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ ?
– Vâng, đông lắm, vui lắm…vậy chứ bác đă ở Sàig̣n hở ? Bác làm ǵ trong đó?
– Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…
– Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…
– Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm th́ tớ về “hiu”…
– Tám nhăm, bác c̣n trẻ, sao về hưu sớm thế?
– Về vườn th́ đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần ḿnh. Sau…chúng nó thải ḿnh, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay ḿnh, kiếm ăn…
– Bác dạy môn ǵ trong thời gian đó ? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ ?
– Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược (thời Tây) th́ xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lư thuyết Cộng-Sản thuộc nằm ḷng.
Giải phóng Miền Nam xong, Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lư Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều.
Mà quả thật, có ai biết ḿnh là thằng dốt đâu ? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng…học sinh nghe theo răm rắp…
– Rồi sau đó ư ? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ… tớ về “hiu”, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm…
– Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá ?
– Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió ḥa th́ có đồng ra, đồng vào. Giông băo vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng ǵ đâu em ơi !
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, ḍ t́m con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng pḥng ṭ ṃ rướn cổ sang theo dơi,
– T́m cái ǵ đấy hở ?…
– Phố Hàng Bài…
– Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! T́m làm ǵ cho mệt xác!
Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nh́n trần nhà, miệng cười h́ h́,
– Chú em đi buôn đường Sàig̣n, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu th́ có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật :
– Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…
– Tôi cũng đă nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không c̣n thuần túy Hải-Dương. Chỉ v́ tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đă có đôi người của chế độ Sàig̣n cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là may mắn lắm rồi…
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài ...
– Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…
Hà Nội ( 1974 ) & Sài G̣n ( 1969 )
Đêm xuống đă lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà-Nội, Tô Lan Phương c̣n đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng cô Ca-Sĩ Nhân-Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre.
Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn pḥng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô Lan Phương bị chặn lại ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt ḿnh như đang mềm đi, đang giăn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu,
“Anh ở đầu sông, em cuối sông…”
Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đă sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.
Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà-Nội.
Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng!…leng keng!…” làm cho thành phố này già nua thêm.
Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo ḷng, thịt ḅ khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi …
– Chè đỗ đen đi chú em…
- Cho tôi một bát.
Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên :
– Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá ?
Tôi giựt ḿnh .
“ Chẳng lẽ bà này quen ḿnh, gọi đùa ḿnh là đại tá ?”
Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang :
– Bát to đấy nhá ! Để lấy sức cuốc một ngày.
– Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức “đánh”…xích lô.
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở,
– Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ…
– Đại tá mua gạo tháng này chưa ? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá…
– Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu…Mẹ kiếp ! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần ḿnh. Bây giờ ḥa b́nh, nó duỗi ḿnh ra, nó ăn cả, đồ chó má !
Thấy tôi trố mắt theo dơi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích :
– Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng.
Ai đời ! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu c̣n phải đi đạp xích lô để kiếm sống th́ quả là tội nghiệp quá !
Người phu xe già thở dài
– Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như…một v́ sao rụng.
Tôi giật ḿnh, bốn tiếng “một v́ sao rụng” h́nh như tôi đă nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi…
Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét ǵ quen không, th́ bên bờ hồ có tiếng gọi :
– Xích lô! Xích lô !
Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh :
– Mai tôi giả tiền nhớ ! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên…
– Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà…
Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá th́ ông đă nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách.
Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (tháng 5 năm 1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rơ nét mặt của người khách lạ đă tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàig̣n thất thủ.
Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại h́nh dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông thượng tá Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người phu xe già… cũng có đôi vai ngang.
Thêm vào đó, thân h́nh người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.
Khi chiếc xích lô lẫn trong ḍng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ.
Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn h́nh ảnh người phu xe già, với câu than thở :
“ Bây giờ, thân tớ ví như…một v́ sao rụng ”
Đêm thứ nh́, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ.
Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi đă đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tṛn bốn tuổi.
Hôm ấy (1946) bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, “Ai yêu Bác…hơn chúng em…”
Bố bịt mồm tôi lại :
–Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay…Con hăy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!
Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay.
Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không c̣n gặp nhau nữa. V́ hai năm sau, bố tôi đă bị giết. Những người mê say “bài hát không hay” đă giết bố tôi…
Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đă đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt,
Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sàig̣n. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái-Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.
Sáng mùa Thu Hà-Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Điện đường lập ḷe. Quán hàng c̣n đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. C̣i tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga c̣n im tiếng, v́ chưa tới giờ phát đi những “bài hát không hay”.
Đứng trên sân ga Hàng-Cỏ, ḷng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi v́ sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông…
Vương Mộng Long
Last edited by hoathienly19; 10-05-2020 at 18:48.
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
RA ĐI KHÔNG HẸN NGÀY VỀ TRẦN VĂN THÂN - NGƯỜI BIỆT KÍCH DÙ BẤT TỬ
RA ĐI KHÔNG HẸN NGÀY VỀ
TRẦN VĂN THÂN - NGƯỜI BIỆT KÍCH DÙ BẤT TỬ
Trực thăng đang bốc các biệt kích triệt xuất.
1974 - 1975 - Những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết.
Lợi dụng đường ṃn hcm đă bị bỏ ngơ và những điều khoản bất công phi lư trong bản hiệp định ngưng bắn 1973 do Hoa Kỳ và bọn cs bắc việt xâm lược sáng tạo, nên bọn cs bắc việt đă vơ vét cả những thanh thiếu niên và di chuyển gần hết các sư đoàn chủ lực của chúng vào Miền Nam, uy hiếp các tỉnh địa đầu giới tuyến thuộc Quân Đoàn 1, đồng thời bao vây Cao Nguyên Trung Phần, thuộc lănh thổ Vùng II Chiến thuật.
Ư đồ của bọn cộng phỉ là tấn công cưỡng chiếm cho được VNCH theo lệnh các quan thầy của chúng là bọn tàu cộng và liên sô, ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh đă rút hết về nước, phủi tay trước những cam kết của nhiều đời Tổng Thống Mỹ, đă kư hứa giúp đỡ Miền Nam VN, chống lại cuộc xâm lăng của bè lũ cộng sản đệ tam quốc tế,do bọn cs bắc việt độc quyền làm tay sai, lính đánh thuê, đảm nhận suốt cuộc chiến tương tàn, sau khi chia hai VN vào tháng 7-1954.
Trước t́nh h́nh nguy ngập của đất nước, gần như tính bằng ngày. Thế nhưng QLVNCH vẫn không bỏ cuộc và dù biết đang phải chiến đấu trong cô đơn đầy thiếu thốn, mà mạng sống của người lính ngoài chiến trường, th́ mỏng manh hơn bao giờ hết.
Vậy mà chẳng ai nghĩ tới chuyện đào ngũ, bỏ trốn ra ngoại quốc, cho dù người Mỹ đă cố t́nh tiết lộ việc di tản cho một số quan chức có quyền hành tại Sài G̣n.
Cao cả và đáng kính trọng khâm phục nhất, cũng vẫn là những Người Lính thuộc Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), trong đó bao gồm Các Toán Công Tác Xâm Nhập thuộc các Đoàn Công Tác và các Đoàn Liên Lạc của Nha Kỹ Thuật/ Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, vẫn tiếp tục tiến hành công tác xâm nhập vào những mục tiêu nguy hiểm nhất, chẳng khác nào nhiệm vụ ám sát Toàn Quyền Pháp là Merlin, của Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái tại Hồng Kông vào năm 1924.
Có thể nói được, đây là cuộc đổi mạng của những Người Lính cảm tử LLĐB giữa chốn ba quân, để mang về cho QLVNCH, những tin tức t́nh báo chiến lược, được cập nhật hóa tại chỗ đóng quân của giặc.
Nhờ đó, mọi cấp chỉ huy tại các vùng chiến thuật, mới nắm vững được t́nh h́nh và hoạt động của địch, để ta điều nghiên ứng phó.
Đoàn Công Tác 75 trách nhiệm Vùng II Chiến thuật, với những nhiệm vụ đặc biệt kể trên.
Quân số của Đoàn, có 9 Toán Thám Sát, mỗi toán gồm :
- Một Sĩ Quan Trưởng Toán
- Năm Hạ Sĩ Quan Chuyên Viên và các toán viện công tác.
Quân số này tuỳ theo nhiệm vụ giao phó, nên số Nhân Viên Công Tác, tăng hay giảm với nhu cầu.
Ít ai biết tới những sự hy sinh cao cả nhưng âm thầm của những Người Lính LLĐB trên, chỉ riêng những ngày đen tối 1974-1975, đă có tới bảy trong chín Sĩ Quan Trưởng Toán, đă hy sinh tại chiến trường máu lửa, trong chốn ba quân, phần lớn bị banh thây bầm xác v́ bom đạn.
Số khác mất tích, bởi không một ai chịu đầu hàng để mà sống nhục.
Chết th́ chết, những Toán c̣n lại vẫn tiếp tục bổ xung và tiến hành những công tác hiểm nguy cho đến những giây phút cuối cùng, phải ră ngũ v́ lệnh buông súng, do Dương Văn Minh ban hành vào trưa 30-4-1975.
CỐ TRUNG ÚY TRẦN VĂN THÂN
Ông sinh năm 1942 tại Phú Trinh Phan Thiết,Tỉnh B́nh Thuận, cựu học sinh Trung Học Tư Thục Bạch Vân và Bồ Đề.
Nhập ngũ tháng 10-1962, cùng với Đặng Ken, Cao Minh, Nguyễn văn Nghĩa, Nguyễn Văn Đại, Trần Khói Hương.
Các bạn Minh, Đại, Nghĩa cùng Thân kẻ trước, người sau đền nợ nước, Trần Khói Hương chết sau khi ra tù CS, chỉ c̣n Đặng Ken trước là cận vệ của Tướng Đặng Văn Quảng Tư Lệnh LLĐB sống già nơi quê hương Phan Thiết.
Thân ra trường tháng 3-1963 và về Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt, năm đó trú đóng tại Nha Trang.
Ông cũng là vơ sư cao cấp của Thái Cực Quyền, v́ vậy được chọn về Đơn Vị Quân Cảnh của Bộ Tư Lệnh LLĐB.
Sau Tết Mậu Thân 1968, Trần Văn Thân là Trưởng Toán Thám Sát thuộc Đoàn Công Tác 75, có nhiệm vụ xâm nhập vào các vị trí đóng quân của các đại đơn vị cs bắc việt, để thu nhặt cập nhật hóa tin tức t́nh báo chiến lược.
Theo tin tức của những đồng đội hiện c̣n sống sót tại hải ngoại cho biết Thiếu Uư Trần Văn Thân, đă bị mất tích vào mùa hè 1974 v́ bị giặc săn đuổi, Ông đă bơi qua một con sông nước chảy siết nên chết mất xác.
Những giây phút thảm tuyệt này, đă được một nhân viên mang máy may mắn được sống sót kể lại.
Vậy mà từ ấy cho đến nay những người thân trong gia đ́nh, thảm nhất là mẹ Ông là Bà Ngô Thị Dân ở Phan Thiết, cùng với người vợ trẻ tên Nguyễn Thị Liễu với ba con thơ dại tại Sài G̣n, lúc nào cũng ngong ngóng hy vọng là con và chồng-cha ḿnh, vẫn c̣n sống trong các trại tù đâu đó, rồi cũng sẽ trở về như nhiều bạn bè của Thân cùng đơn vị và quê Phan Thiết.
Cứ chờ măi đến nỗi mẹ già khóc mù cả hai mắt rồi gục chết vào năm 2000, nhưng vẫn không ngớt gọi tên đứa con thân yêu của ḿnh .
Riêng người vợ trẻ thay chồng nuôi con, ở vậy cho tới khi tất cả khôn lớn vào đời, c̣n ḿnh th́ cứ ôm ấp h́nh bóng của người chồng cũ, vẫn sống trong những di ảnh thân thương nguyên vẹn, mà chàng th́ biền biệt tận phương nào ?
CHUYẾN CÔNG TÁC CUỐI CÙNG CỦA TRUNG ÚY TRẦN VĂN THÂN :
Thi hành công tác được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II giao phó, với nhiệm vụ thâu thập tin tức về các hoạt động của địch quân đang hiện diện trong lănh thổ, thuộc Vùng chiến thuật.
Toán Thám Sát do Thiếu Uư Trần Văn Thân làm Trưởng toán, nhận lệnh thi hành công tác bí mật tại Đèo An Khê, nằm trên Quốc Lộ 19, giữa đường từ B́nh Khê đi An Túc, thuộc tỉnh B́nh Định.
Lúc đó, vùng này, coi như một chiến trường đẵm máu, giữa sư đoàn 3 sao vàng của bọn cộng phỉ xâm lược và Sư Đoàn 22 Bộ Binh của QLVNCH.
Địch quân hiện diện cả một vùng rộng lớn trong lănh thổ các Quận B́nh Khê, An Túc, Hoài Ân, An Lăo ... mà dấu hiệu để lại tại chỗ, là việc bọn cán binh thổ phỉ đào xới cướp sạch lán những nương khoai, rẫy ḿ của đồng bào Bà Na trong vùng, để làm lương thực nuôi lũ quân đánh thuê, tay sai tàu cộng của bọn chúng.
Theo tin tức ghi nhận, th́ Toán Thám Sát của Thiếu Uư Thân đă chạm địch từ những giây phút đầu, v́ lọt vào bộ tư lệnh của sđ 3 sao vàng, bên cạnh có đến cả một trung đoàn bảo vệ.
Tuy vậy, họ đă chống trả mănh liệt trước quân số hàng ngàn của lũ cộng phỉ; thêm vào đó, chúng c̣n có cả trời pḥng không của Nga Sô và Trung Cộng viện trợ, trong lúc Toán Thám Sát của Thân, vỏn vẹn chỉ có sáu người.
Nhưng cuộc đời của Người Lính VNCH là vậy đó, nhất là những người lính cảm tử Lực Lượng Đặc Biệt. Bởi vậy, các cấp chỉ huy liên hệ, chỉ c̣n biết nghe Đồng Đội của ḿnh, qua tiếng báo cáo với đại bàng, là đơn vị đang chạm địch nặng, cùng lúc với tiếng súng lớn nhỏ và lựu đạn nổ, xen lẫn tiếng hô xung phong, vang lên từng đợt trong ống liên hợp.
Cùng ḥa tấu trong điệu ru nước mắt này, là tiếng đạn pḥng không nổ tung tại một vùng xa xôi nào đó, nhưng âm hưởng truyền qua máy, cũng đủ làm rách tai người hiệu thính viên đang trực.
Cuối cùng là tiếng thét của Thiếu Uư Trưởng toán Trần Văn Thân "Zulu - Zulu" Âm thanh càng lúc càng nhỏ dần và tan biến vào trận địa, lúc đó vẫn c̣n vang tiếng súng ở một góc trời.
Vậy mà nhiều năm sau, dường như tiếng thét cuối cùng của người Lính Trận :
Cố Trung Uư LLĐB Trần Văn Thân, vẫn c̣n vang vọng đâu đây, bảo sao những người thân của Ông, cứ vẫn tin là Con, Chồng và Ba của ḿnh c̣n sống, nay đang ở nơi nào đó, mai sẽ về ...!
Sau khi nhận được tin dữ về Toán Thám Sát của Thiếu Uư Thân, Nha Kỹ Thuật đă phối hợp với Không Quân, hằng ngày tiếp tục lên vùng t́m kiếm dấu vết của những người sống sót đang ẩn nấp trong rừng sâu, từ ánh sáng của kiếng chiếu rọi lên, hoặc Panô (Panel), hay hỏa châu cấp cứu, cũng như bất cứ tín hiệu truyền tin nào, của Toán thất lạc nhưng tất cả đă ra đi không hẹn ngày về.
Đại Uư Nguyễn Hùng Trâm (hiện ở Mỹ), Liên Toán Trưởng thuộc Đoàn Công Tác 75, vô cùng cảm xúc khi đọc bài viết về Cố Trung Uư Trần Văn Thân, v́ chính Ông là người đă bay thả Toán Thám Sát của Trần Văn Thân tại đèo An Khê, tỉnh B́nh Định.
Đây là thời gian nguy ngập nhất của chiến trường này, nên chỉ vỏn vẹn một tháng ngắn ngủi, mà Đoàn Công Tác 75 đă mất 3 Toán Thám Sát LLĐB trong khu vực này.
Theo báo cáo, th́ Toán của Thân đụng độ với một trung đoàn địch thuộc sư đoàn 3 sao vàng, ngay khi vừa nhảy xuống, với nhiệm vụ chặn bắt một tên bác sĩ vc ở đầu đường ṃn.
Tên này sau đó cũng bị Toán Thám Sát của Trung Đoàn 45 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh QLVNCH, chận ở phía cuối đường đă bắt được, giải giao cho Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Pḥng 2 Quân Khu và được trực thăng chở về Pleiku khai thác thông tin.
C̣n sống sót trong 7 Toán Thám Sát thuộc Đoàn 75 bị thất lạc, là Thiếu Uư Vũ Văn Quyền cũng xác nhận là Thiếu Uư Trần văn Thân đă mất tích vào năm 1974.
Xin nghiêng ḿnh tri ân những người đă hiến thân cho dất nước và dân tộc Việt Nam.
Thảm thương ơi cho Thân Phận Người Lính VNCH, một đời V́ Nước - V́ Dân, màu cờ sắc áo, bảo vệ cho Miền Nam Việt Nam, thế nhưng nay có c̣n được bao nhiêu người nhớ tới.
(Sài G̣n trong tôi/ Phạm Hoa)
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Phi hành đoàn cuối cùng của Không Quân VNCH hy sinh cho Tổ Quốc
NGƯỜI HÙNG PHI CÔNG - TRƯỞNG PHI CƠ TRANG VĂN THÀNH VÀ BẢY DŨNG SĨ KHÔNG QUÂN
Phi công, Trưởng phi cơ, Trung úy Trang Văn Thành sinh ngày 16/9/1947 tại Rạch Gía, t́nh Kiên Giang. Mồ côi cha năm lên 9 tuổi. Cha của Thành là ông Trang văn Cánh, một nhân viên làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Tàu “bobo”của ông đă bị Việt cộng phục kích và tấn công. Ông Cảnh bị trọng thương rơi xuống sông, ông cố bơi vào bờ nhưng đă qua đời v́ vết thương trầm trọng.
Cậu bé mồ côi cha Trang Văn Thành được mẹ gửi vào trường để theo học Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu, Việt Nam. Trường luyện thép Thiếu Sinh Quân này đă trui luyện một Trang Văn Thành dũng cảm trong chiến tranh, có tinh thần chống cộng cao độ, quyết chiến đấu và đă tử trận cùng phi hành đoàn dũng cảm AC119K của ông, trong ngày Sàig̣n thất thủ 29 tháng Tư năm 1975.
Trang Văn Thành gia nhập quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Ḥa năm 1968, ngành phi công. Ông du học Hoa Kỳ năm 1969 và trở về Việt Nam giữa năm 1970. Ông đă phục vụ cho phi hành Xích Long 413, vận tải cơ C119, loại phi cơ chuyên chở hành khách và hàng hóa với tư cách hoa tiêu phụ. Một năm sau, ông được thụ huấn hoa tiêu chánh và rổi trở thành Trưởng phi cơ AC119K của phi hành đoàn Vận tải cơ Chiến đấu Tân lập Tỉnh Long 821. Sau khi phi đoàn Vận tải chuyên chở hành khách, Xích Long 413 giải tán vào cuối năm 1971.
Trung Úy Trang Văn Thành trong thời gian bay huấn luyện C-119 tại Hoa Kỳ
Trung úy Trang Văn Thành trong ngày nhận đôi cánh bay
Trung úy Thành đă chọn vận tải cơ tác chiến cho sự nghiệp quân đội của ông. Trong khi đó Trang Văn Thành có nhiều cơ hội và khả năng để về phục vụ trên một loại vận tải cơ không chiến đấu. Lúc đó, Trang Văn Thành đă kết hôn với chị Vơ Thị Ḥa là cháu gái của Thiếu Tướng Vơ Xuân Lành, Tư Lệnh Phó Không Quân, nhân vật đứng hàng thứ hai của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. “Đường chú chú đi, đường cháu cháu đi”. Thành đă không nhờ vả người chú vợ đầy quyền lực. Ông đă hiên ngang chọn lựa con đường chiến đấu trực tiếp trên chiến trường, để c̣n có cơ hội bảo vệ đất nước và “thù cha phải trả”.
TRẬN CHIẾN CHƯA TÀN
Sau hai tiếng đồng hồ chịu đựng trận mưa pháo long trời lỡ đất do Cộng sản Việt Nam dội vào phi trường Tân Sơn Nhất. Khơi dậy cơn phẫn nộ của dũng sĩ Trang Văn Thành, con người không khuất phục định mệnh, không khoanh tay chờ địch đập pháo sát hại, không ngồi yên đợi kẻ thù tràn đến tàn sát “C̣n nhân viên, c̣n phi cơ, c̣n súng đạn, phải c̣n chiến đấu”. Thành đă phân tích, so sánh và quyết định: Chết v́ bị đạn pháo kích của địch ở phi trường hoặc chết v́ đạn pḥng không của giặc trên không trung cùng ư nghĩa của sự chết. Nhưng chiến đấu để chết là cái chết oanh liệt, vô cùng ư nghĩa của một quân nhân gan dạ có tránh nhiêm bảo vệ quê hương, v́ dân, v́ nước, v́ sự an nguy của ngừoi thân, bằng hữu và bá tánh.
“Thù cha phải trả”giấc mơ bao năm trời, ông đă thức trắng thâu đêm bay tên toàn cơi quê hương, trên không phận đường ṃn Hồ Chí Minh, để săn đuổi và diệt địch. Giờ đây, giặc đă t́m đến nhà. Tại sao lại phải cuối đầu rút cổ chờ chết trong bốn bức tường phi đoàn nhục nhă này? Trang Văn Thành đă quyết định phải bay lên không, chiến đấu và diệt địch trước khi ông gục ngă v́ kẻ thù.
Trang Văn Thành mạnh dạn đứng lên, dơng dạc kêu gọi đồng đội, tự điều động phi hành đoàn dự bị của ông để bay lên không quyết tử chiến. Dù thời điểm đó, Bộ Tư Lệnh Không Quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Pḥng và Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa đă tê liệt và đang trên đà tan ră.
Trong đám đông của hơn 40 nhân viên phi hành hiện diện tại phi đoàn Tỉnh Long 821, AC119K. Người ta đă nh́n ông trong sự ngạc nhiên, thương hại với ư nghĩ thầm lặng “Thằng điên”. Khi cuộc chiến VN đă hoàn toàn kết thúc và thua cuộc, ai ai cũng đang t́m đường bôn tẩu, kiếm cách đưa vợ con và thân nhân ra khỏi nước Việt Nam, để tránh một cuộc trả thù và tàn sát của Việt cộng.
Trong ư chí của Thành hoàn toàn trái ngược, với ông trận chiến vẫn chưa tàn và cuộc chơi chiến tranh chỉ mới bắt đầu. Ư nghĩ trả thù cho thân phụ đang bùng cháy mănh liệt trong tâm tư người sĩ quan mang mối thù cha cao ngất. Cuồn cuộn dâng lên theo những tiếng nổ xé nát không gian của kẻ thù.
Sự im lặng của mọi người vỡ tan. Trung sĩ Nhất Phan Quốc Tuấn, người kỹ sư phi hành dũng cảm, tự cảm thấy ḿnh phải có trách nhiệm thi hành phi vụ để bảo vệ thủ đô. Là một nhân viên phụ tá ngành Kỹ sư Phi hành, nghề nghiệp vững, nhiều tâm huyết phục vụ cho đất nước, đă năm năm chia xẻ những ngọt bùi và gian nguy cùng viên phi công Trang Văn Thành. Há, không sờn gian nguy! Tuy Quốc Tuấn không nằm trong danh sách phi hành đoàn dự bị của Trung úy Thành. Đồng ư nghĩ cứu nước, đáp lời kêu gọi của Thành, Tuấn bước ra khỏi đám đông, trước sự ngơ ngác của mọi người, Quốc Tuấn đă có hàng trăm phi vụ bay đêm với Trung úy Thành, người mà Tuấn vô cùng ngưỡng mộ, quư mến trong t́nh đồng đội, do tư cách của Trang Văn Thành đă đối xử tốt đẹp với anh em. Người làm việc rất “hợp rơ” với Tuấn.
Tiếng x́ xào vang lên trong phi đoàn. Lần lượt sĩ quan phi công Trung úy Trần Văn Hiền, Sĩ quan Điều hành viên, Sĩ quan Hồng ngoại tuyến, một Hạ sĩ quan Hỏa châu, Trung sĩ Chín và Hạ sĩ quan Vũ khí Phi hành dũng cảm khác, lặng lẽ đứng lên tỉến về phía Trang Văn Thành, theo tiếng gọi của non sông. Họ cùng hỗ trợ Trang Văn Thành đứng lên diệt giặc, sống và chết có nhau trong những giây phút tử sinh cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam. Họ đă thành lập một phi hành đoàn bất thường, đoàn kết và gan dạ. Một phi hành đoàn thực sự có tinh thần chiến đấu duy nhất c̣n sót lại của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Họ đă chiến đấu thế cô, không có phi cơ đồng đội phụ trợ, không cần phi vụ lệnh, không được lệnh của cấp trên, từ Bộ Tư Lệnh Không Quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Pḥng hay lệnh của Tổng Thống VNCH. Tất cả đều đă ră ngũ và đă bôn tẩu. Họ đă thi hành công tác theo mệnh lệnh lương tâm của một quân nhân có trách nhiệm.
Gương mặt đầy phẫn nộ cho vận nước đảo điên của Trung úy Trang Văn Thành thể hiện lần cuối cùng tại cửa phi đoàn Tỉnh Long 821, trước khi họ lên đường chiến đấu và diệt địch, Thành buồn bă tuyên bố lời cuối cùng với viên sĩ quan này, gạn hỏi ư kiến:
- Trung úy có cần tôi ghi tên phi hành đoàn của Trung úy vào sổ trực hành quân và báo cáo lên Không đoàn không Trung úy?
- Ứ! Vô ích. Sổ trực hành quân phi đoàn tôi đă xé rồi, cơ quan đầu năo c̣n nữa đâu mà báo cáo cho mất công chứ. Giờ đây, chúng tôi tự nguyện chiến đấu cho đất nước v́ trách nhiệm của một quân nhân, mà không cần đến lệnh của cấp trên. Không làm phiền Thiếu úy đâu. Chúng tôi phải gấp rút lên đường thôi!
NHỮNG GIỜ TỬ CHIẾN CUỐI CÙNG
Chiếc phi cơ AC119K của Trung úy Trang Văn Thành gầm thét náo động phi trường Tân Sơn Nhất. Mang một chút sinh lực phấn khởi đến cho những tâm hồn đang bấn loạn với thể xác đă ră rời v́ trận mưa pháo kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ vừa qua và c̣n đang tiếp diễn ác liệt. Sức nổ và sự tàn phá khủng khiếp, chẳng những nó hủy hoại vật chất, cả tinh thần và hồn phách của những chiến sĩ Không Quân đang hiện diện trong ḷng trận chiến cũng tan biến.
Ḥa lẫn tiếng động cơ là những loạt đạn pháo kích dữ dội của Cộng sản VN rơi vào sân bay Tân Sơn Nhất. Một bầu không khí hăi hùng của chiến tranh, Cộng sản Bắc việt đă có công triệt hạ Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, cho mục tiêu chiến thắng cuối cùng để đoạt lấy chính quyền từ tay của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Hầu áp đặt một chế độ độc tài gian tham tại Miền Nam VN.
Phi cơ của Trung úy Thành rời khỏi phi đạo, rẽ mũi bay về bên trái, hướng Tây của Thủ đô Sàig̣n. Tránh né đạn pḥng không dầy đặc ở phía Đông Bắc phi trường Tân Sơn Nhất. Ông nhanh nhẹn cho phi cơ bay lên cao độ, làm các ṿng chờ ở phía Tây Thủ đô yên tĩnh, hầu quan sát t́nh h́nh chiến sự. Vừa mới bay lên không ông cần nhiều thời gian để quan sát, theo dơi và chọn lựa các mục tiêu trước khi ra tay sát thủ.
Sau khi phi cơ cất cánh, trong hai tiếng đồng hồ vắng bặt âm thanh của máy bay, người ta cứ ngỡ đó là chiếc vận tải cơ chiến đấu AC119K hèn nhát, đă cất cánh bay đi và đă di tản khỏi nước Việt Nam.
Mất gần hai tiếng đồng hồ bay lượn trên bầu trời Đồng Tháp Mười ven đô, phía Tây của thành phố Sàig̣n chờ trời sáng, đồng thời quan sát kỹ lưỡng các mục tiêu. Rồi con “Hắc đại bàng dũng mănh” lại gầm thét ồn ào, lù lù xuất hiện trở lại trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhất.
Bấy giờ, đă 7 giờ hơn. Mặt trời đang lên, thành phố Saig̣n đang bừng sáng ở phía Đông. Sân bay Tân Sơn Nhất đang bị sang bằng, mịt mù khói lửa. Vài đám khói trắng để lộ các mục tiêu dàn đại pháo của địch đang rót vào phi trường. Tọa độ phát hiện tại những cánh rừng thưa gần xóm mới, hướng Bắc của quận G̣ Vấp ven đô.
Có lẽ Hà Nội đă rút tỉa kinh nghiệm sự thất bại nặng nề trong trận tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Hàng trăm xác Việt cộng phơi thây trên Quốc Lộ 1, do hỏa lực của vận tải cơ chiến đấu AC47, phi đoàn Hỏa Long đă bắn hạ, khi họ tấn công vào Sàig̣n bằng hướng Tây Bắc, đồng ruộng bằng phẳng, trống trải, ít dân cư, phi cơ dễ dàng tác xạ, rải đạn lên chúng. Lần này, chúng tiến chiếm Sàig̣n bằng hướng Đông Bắc, gần rừng thưa, để trà trộn vào những khu đông dân cư, tránh né những cuộc không tập với hỏa lực hùng hậu của Không Quân VNCH.
SAI MỘT VÁN CỜ
Khi chiến cuộc VN bắt đầu mở rộng, Quân đội Hoa Kỳ ào ạt đổ vào phục vụ ở VN. Họ đă bị tổn thất nặng nề qua hai chiến thuật “Du kích chiến, bắn sẻ rồi lẫn trốn an toàn, và Việt cộng đă dùng chiến thuật thứ hai “Tấn công biển người, càn quét địch quân hiệu quả và nhanh chóng. Gây nhiều tổn hại nhân mạng đối phương.
Để chống lại Chiến thuật Tấn công biển người vô cùng lợi hại, gây nhiều tổn thất cho Quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ đă phải nghiên cứu và sáng tạo ra các loại Vận tải cơ Chiến đấu. Họ đă dùng phương pháp rải đạn trên một vùng rộng lớn, dài hàng cây số, bằng những loại vũ khí liên thanh, tác xạ bằng điện, mỗi khẩu bắn cùng một lúc bởi 6 ṇng súng xoay tṛn trên 6.000 viên đạn cho một phút. Khoảng cách của mỗi viên đạn đến mục tiêu đều đặn trên mặt đất độ ba tấc.
Thoạt đầu, Quân đội Hoa Kỳ thí nghiệm bằng vận tải cơ có trọng tải nhẹ, đó là vận tải cơ chiến đấu AC47. Phương pháp rải đạn này đă đem đến nhiều kết quả lớn lao. Hoàn toàn bẻ găy chiến thuật tấn công biển người vô nhân đạo của Cộng sản Việt Nam. Lùa dân sự (dân công) càn quét quân đội địch, trước khi lực lượng vũ trang chính quy của họ nhập cuộc, tiến vào mục tiêu và tịch thu chiến lợi phẩm.
Phát triển lớn hơn nữa, Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu cải tổ các lọai vận tải cơ có trọng tải lớn hơn, đó là AC119G. Rồi dẫn đến, các loại vận tải cơ chiến đấu trang bị các dàn súng đại bác bắn liên thanh 20 ly, AC119K và AC130. Loại vận tải cơ chiến đấu AC130 tối tân nhất của Mỹ chỉ được sử dụng bởi Không Lực Hoa Kỳ hoạt động ở VN.
Cuộc chiến tranh VN mỗi ngày càng bộc phát và leo thang dữ dội. Sự tổn thất nặng nề của Việt Cộng do những phi cơ vận tải chiến đấu, trang bị vũ khí liên thanh chống biển người hữu hiệu do Hoa Kỳ chế tạo, Cộng sản Bắc việt đă phải cầu cạnh với Cộng sản Quốc tế Liên Sô tăng viện nhiều loại vũ khí tối tân hơn, nhằm chống lại các loại phi cơ lợi hại của Hoa kỳ. Cuối thập niên 60, cuộc chiến tranh VN đổi hướng. Phe Cộng sản cho xuất hiện nhiều loại hỏa tiễn pḥng không tự động SAM và các loại hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay SA7. Những loại hỏa tiễn mới này đă gây khốn đốn cho cả Không lực Hoa kỳ lẫn Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa.
Suốt giai đoạn Chiến tranh VN, để vô hiệu quả Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa; Việt cộng đă luôn sử dụng hai chiến thuật: Điệu hổ ly sơn hoặc điệu hổ nhập hầm (bẫy), hầu bảo toàn lực lượng trước sức mạnh của Không quân đối phương. Khi họ dùng một lực lượng chính quy đông đảo để tấn công, càn quét địch và để tránh khỏi một cuộc tàn sát do phi cơ đối phương gây ra.
Chiến thuật Điệu Hổ Ly Sơn là một phương pháp chiêu dụ phi cơ đánh sai lạc mục tiêu. Chúng phải dùng đến những toán cảm tử cực nhỏ, chỉ 2 hoặc tối đa là 3 người. Họ sử dụng pḥng không và vũ khí bắn ra toàn là đạn lửa chiếu sáng. Các nhóm cảm tử này được đặt ở những vị trí có địa thế bị phi cơ nghi ngờ, nhiều đồi và rừng, họ bố trí rất cẩn thận với hầm trú ẩn sâu và an toàn, gắn những mục tiêu họ đă dự định sẽ tấn công.
Toán quân “nhử địch” này có nhiệm vụ bắn máy bay bằng đạn lửa, để chiêu dụ phi cơ, các phi công lầm tưởng những nơi bắn máy bay đó là những lực lượng chính của Việt cộng. Phi cơ sẽ mất nhiều thời giờ đến tác xạ và thả bom các tọa độ giả tạo do họ dàn dựng, mà phi công quên đi mục tiêu chính là đồn bót hoặc căn cứ đang bị Việt cộng tấn công.
Trong khi đó, lực lượng chính quy tấn công đồn bót, căn cứ địch, lại xuất phát từ những địa điểm trống trải, yên tĩnh như đồng ruộng, ít bị phi cơ nghi ngờ là con đường chuyển quân. Chúng sẽ tấn công chớp nhoáng và nhanh nhẹn rút lui theo các lộ tŕnh an toàn đó.
Chiến thuật “Điệu hổ ly sơn” này của Việt cộng đôi khi cũng bị tổ trác, khi họ gặp phải những phi công trực thăng vũ trang hoặc hoa tiêu vận tải chiến đấu đă sinh sống ở miền quê Việt Nam, biết rơ chiến thuật lừa phỉnh này, Họ luôn đi t́m những mục tiêu chuyển quân âm thầm, yên tĩnh, khu vực ít bị nghi ngờ. Đột nhiên rải đạn đánh phá, đă đem đến những kết quả mỹ măn, nhiều xác Cộng quân phơi thây bất ngờ, không c̣n cơ hội mang xác ra đi.
Trung úy Trang Văn Thành đă rời vào cái bẫy của Cộng sản Bắc việt, ông đă bị trúng kế “Điệu hổ nhập hần (bẫy)”. Khi năy quan sát trên không phận ở phía tây Thủ đô Sàig̣n. Trung úy Thành chỉ khám phá và ghi nhận được những dàn trọng pháo và hỏa tiễn của Việt Cộng đang bắn vào Thủ đô. Chúng đă được đặt rải rác từ những cánh rừng thưa ở mạn Bắc của Xóm Mới, thuộc Quận G̣ Vấp. Cho nên ông đă bất cẩn khi chọn lựa và bay ngang quận G̣ Vấp để đánh lên mạn Bắc.
Cộng sản Bắc việt đă âm thầm mai phục phi cơ. Lén lút đưa những dàn pḥng không và hỏa tiển tầm nhiệt vào bên trong quận G̣ Vấp. Một xóm nghèo nàn đông dân cư, thuộc ngoại ô hướng Bắc thủ đô Sàig̣n. Một chốt chặn đường phi cơ hạ hoặc cất cánh tại đầu phi đạo Tân Sơn Nhất.
Cộng sản Việt Nam đă tiên đoán trước Không quân Việt Nam Cộng Ḥa sẽ phải xuất phát và tấn công vào họ từ những vùng an toàn nhất. Việc âm thầm di chuyển những dàn phóng không và hỏa tiễn vào quận G̣ Vấp là nhất sách với hai cái lợi của sự bất ngờ: Dù phi cơ có phát giác ra họ, phi công cũng không dễ dàng tác xạ vào nhà dân, gây tổn thương lớn đến sinh mạng người dân. Thứ hai là những dàn pḥng không được đặt ở đầu phi đạo sẽ có thể bất ngờ bắn hạ, ngăn chận những phi cơ cất cánh để tấn công vào lực lượng quân sự của họ. Hoặc có thể bắn hạ các phi cơ di tản ra khỏi nước VN. Trung úy Thành đă bị trúng kế “điệu hổ nhập hầm”.
Giờ hành động đă điểm. Trước khi cho phi cơ bay vào mục tiêu, chuẩn bị trận đánh không địa của chiến đấu cơ AC119K. Trung úy Thành đă hội ư cùng phi hành đoàn lần cuối truớc khi ông quyết định đưa vào trận chiến.
- Các anh em có ư kiến ǵ? Chúng ta có nên tiến vào mục tiêu diệt địch bây giờ hay không?
Tất cả những gương mặt đều tự tin trong im lặng. Tất nhiên họ đă hiện diện trên phi cơ là họ chấp nhận một cuộc tử chiến, quần thảo với địch, cứu nguy thành phố Sàig̣n đang trong cơn sốt sụp đổ, sắp rơi vào tay địch. Chính vợ con và thân nhân của họ cũng sẽ gánh chịu hậu quả của sự trả thù thê thảm sau một cuộc bại trận, do phe Cộng sản nham hiểm sẽ chiến thắng. Không c̣n chọn lựa nào khác, nếu phải hy sinh. Một giọng phát ra từ máy liên thoại phi hành đoàn:
- Quyết định thi hành phi vụ này là chúng tôi đă chấp nhận sự hy sinh. Tùy theo quyết định của Trung úy.
Trung úy Trang Văn Thành lái chiếc phi cơ bay bọc từ phía Nam thủ đô Sàig̣n ṿng lên hướng Bắc để đánh ṿng bay đầu tiên vào các mục tiêu đă được phi hành đoàn ghi nhận. Một tràng liên thanh ầm ỹ, ṇng súng minigun xoay tṛn, khói bốc lên, lửa đỏ lóe sáng, 6,000 viên đạn tua tủa bay ra khỏi các ṇng súng trong một phút, tạo thành những vệt đạn lửa trăi rộng gần một cây số, nằm trong tầm tác xạ của loại vũ khí độc hại này, địch sẽkhông c̣n cơ hội sống.
Tiếp nối các ṿng bay tấn công và diệt địch thứ hai rồi thứ ba. Tiếp tục cuộc chiến đấu đầy dũng cảm, cam go để bảo vệ thủ đô. Mỗi một ṿng bay trút hàng ngàn quả đạn đại bác 20 ly xuống đầu địch nơi ven đô. Ba ṿng bay tác xạ đầu tiên của phi cơ vào các tọa độ đặt dàn trọng pháo và hỏa tiễn của địch. Việt cộng đă phải im bặt trong hơn nữa tiếng đồng hồ, kể từ khi con diều hâu xuất hiện và gầm thét ồn ào trên bầu trời Sàig̣n. Chiến sĩ Không Quân đang hiện diện trong phi truờng Tân Sơn Nhất t́m được một ít phấn khởi, ngoi ra khỏi hầm trú ẩn ngộp ngạt, t́m những giây phút thoải mái. Hàng triệu đôi mắt hướng về chiếc phi cơ cứu tinh đang bay lượn ở hướng Đông, sắp sửa nhả đạn, tác xạ ṿng bay thứ tự xuống đầu địch.
Phi hành đoàn đă chiến đấu không mỏi mệt, không đầu hàng, không bỏ chạy. Mỗi lúc chiếc phi cơ AC119K lại tiến sâu vào trận địa dày đặc pḥng không, trọng pháo của địch quân đang cố xâu xé Thủ đô Sàig̣n.
60 GIÂY ĐỐI DIỆN TỬ THẦN
Trung úy Thành đă hạ phi cơ xuống thấp hơn các ṿng bay trước, để đánh địch quân và điều chỉnh. Ông hy vọng cao độ 2.000 bộ, với tầm tác xạ và hiệu quả hơn. Nhưng cao độ này khá nguy hiểm cho một loại vận tải cơ bay chậm chạp, nó nằm trong tầm bắn trả của pḥng không và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch. Trung úy Thành dự định sẽ rải 2 thùng đạn đại bác liên thanh 20 ly để phá hủy và dập tắt các ṇng súng thuộc dàn đại pháo của Việt Cộng, Những tọa độ ông vừa mới phát hiện được trong ṿng bay đă qua.
Phi cơ của Trang Văn Thành chưa kịp tiến gần mục tiêu của địch. Nó đă bay và lọt vào ổ pḥng không bí mật phía đông phi trường. Địch đă im lặng, giữ bí mật đặt dàn pḥng không này trong quận G̣ Vấp, một khu phố nghèo nàn phía Đông, bên ngoài ṿng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Tám nhân viên phi hành đoàn AC119K hiện diện trên phi cơ cùng một cảm nhận những tiếng nổ rung chuyển không gian, xung quanh chiếc phi cơ của họ. Dàn pḥng không của địch đă đồng loạt nả đạn lên không, tấn công chiếc AC119K nổ rợp trời như pháo bông nổ giữa ban ngày. Đợt tấn công đầu tiên gồm bốn quả pḥng không đă không gây thiệt hại nào cho phi cơ.
Mấy giây tử thần ngắn ngủi trôi qua. Phi hành đoàn lại cảm nhận một tiếng nổ đơn độc khác, ảnh hưởng trầm trọng trực tiếp đến phi cơ. Toàn thân chiếc máy bay rung chuyển dữ dội theo tiếng nổ. Họ đă kinh hoàng nh́n thấy lửa đỏ lẫn miếng đạn pḥng không phóng ra, kèm tiếng nổ ấm và bịt kín từ trong ḷng động cơ bên trái.
Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa! Họ đă biết chắc chắn chiếc phi cơ đă bị trúng đạn pḥng không SA7 của Việt Cộng.
Viên phi công Trưởng phi cơ dũng cảm, 28 tuổi. Trung úy Trang Văn Thành không hề nao núng. Ông rất tin tưởng vào tài nghệ lái máy bay của ông, với hơn 2.000 giờ bay, ông đă trải qua không biết bao nhiêu lần phi cơ bị hư hỏng phải đáp khẩn cấp an ṭan. Một trách nhiệm đặt trên vai người Trưởng phi cơ, phải làm mọi cách để đoàn viên phi hành của ông được toàn mạng. Tám sinh mạng trên phi cơ hiện đang nằm trong bàn tay tài nghệ của viên phi công Trưởng phi cơ.
Trung úy Trang Văn Thành b́nh tĩnh, một bản tánh chung của những người phi hành, họ đă được trui luyện ḷng can đảm, ngay từ những giờ bay đầu tiên, đó là sự b́nh tĩnh, hành động chính xác và phải làm mọi cách để được đáp b́nh an và toàn mạng.
Thành dơng dạc trên máy điện thoại của phi hành đoàn. Ông công bố t́nh trạng phi cơ đang nguy ngập với lệnh đáp khẩn cấp.
- Phi hành đoàn, chú ư! Đây, Trưởng phi cơ! Phi cơ chúng ta đă bị trúng đạn pḥng không. Tất cả nhân viên phi hành đoàn hăy b́nh tĩnh, ngồi vào ghế, buộc giây an toàn. Tôi đang làm thủ tục đáp khẩn cấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.
Vừa ra lệnh,Trung úy Thành vội vă hạ mũi và nghiêng phi cơ về bên trái, theo hướng phi đạo Tân Sơn Nhất, đang nằm ở hướng 3 giờ của chiến phi cơ. Trong ư nghĩ của Trung úy Thành đă có sẵn một quyết định rơ rệt. Ông b́nh tĩnh dặn ḍ các nhân viên trong pḥng lái.
- Bằng mọi giá chúng ta phải mang phi cơ ra khỏi vùng đông đúc dân cư của Quận G̣ Vấp. Nếu phi cơ của chúng ta không lết kịp đến phi đạo. Tôi sẽ quyết định cho phi cơ làm crash ngay tại các cánh đồng vắng xung quanh phi trường.
“THƯỢNG ĐẾ” CƯỚP LẤY TAY LÁI PHI CƠ
“Thượng đế” đă cướp lấy cần lái phi cơ từ tay người phi công Việt Nam Cộng Ḥa tài ba và dũng cảm Trang Văn Thành. Phi cơ vừa nghiêng bên trái, gia tăng sức ép của không khí đè nặng lên vết thương vốn đă trầm trọng nơi động cơ trái vừa bị pḥng không SA7 xé nát, những mối giáp của 3 phần cánh: cánh trong, động cơ và cánh ngoài của phi cơ đă bị rạn nứt khi đạn nổ, không c̣n chịu nổi sức ép của không khí.
Cánh ngoài, bên trái của phi cơ đột nhiên găy xếp lên không, lôi động cơ trái găy đổ theo, rồi ră ra. Nó giựt mạnh những đường dây cáp điều khiển cánh lái nghiêng của phi cơ, làm đứt ĺa, khiến cần lái phi cơ vuột khỏi tầm tay của viên phi công, rồi đập mạnh về phía trước bảng phi cụ.Trung úy Trang Văn Thành kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ không c̣n trong tầm tay điều khiển an toàn của ông nữa. Đồng lúc, 2 chiếc bàn đạp điều khiển cánh lái đuôi phương hướng cũng đập mạnh về trước, khi những dây cáp điều khiển nối liền từ cánh lái đuôi đến bàn đạp cũng bị giựt đứt ĺa và rời khỏi phi cơ.
Phi hành đoàn bàng hoàng cảm nhận cái chết cận kề. Người này loạng choạng chụp lấy dù cá nhân, người kia tháo gỡ dây an toàn, người nọ ṃ mẫm đến cửa thoát hiểm. Đôi tay Trung úy Trang Văn Thành nhanh nhẹn chụp lấy lại cần lái, cố gắng điều khiển, đồng lúc chân ông cḥi đạp trên cần điều khiển cánh lái phi cơ đều lỏng toát, không có một tác động nhẹ, khi toàn bộ hệ thống dây cáp điều khiển ba bộ cánh lái phi cơ đều đứt gọn. Trang Văn Thành rùng ḿnh, toát mồ hôi lạnh, gào thét thất thanh trên máy liên lạc phi hành đoàn, Ông kinh hoàng, thúc giục đồng đội thoát thân.
- Tất cả nhảy dù ra khỏi phi cơ, mau lên, mau lên, mau lên…
Thân phi cơ bắt đầu nghiêng đổ hẳn về một bên. Các đồng hồ ngưng hoạt động, tốc độ phi cơ đứng hẳn giữa bầu trời và chuyển đổi sang trạng thái rơi tự do. Hệ thống điện bị cắt đứt. Tất cả bắt đầu im lặng theo sự rơi chao đảo trong 40 giây mặc niệm cuối cùng của sự chết!
Các động cơ đă hỏng v́ sự rối loạn, tan ră của phi cơ. Tất cả kim đồng hồ dàn phi cụ, đồng loạt rớt xuống số 0. Cánh trái, thân nối liền đuôi phi cơ đă găy đổ và rời khỏi phi cơ đang bay lơ lững trên không. Hệ thống điều khiển tê liệt. Phi hành đoàn kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ của họ không c̣n là một chiếc máy bay thăng bằng, bay bổng trên không trung nữa. Đó là một khối sắt vô dụng đang rơi vùn vụt trên bầu trời Sàig̣n.
Trung úy Trang Văn Thành tuyệt vọng, buông xuôi và đầu hàng định mệnh. Tám người phi hành đoàn cùng cảm nhận trong hăi hùng với cái chết cận kề trong sức rơi của vùn vụt của phi cơ xuống mặt đất, trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhất của buổi sớm, ngày 29 tháng Tư năm 1975. Cơ hội thoát hiểm của phi hành đoàn gần như chấm dứt khi họ đang ở vào trạng thái rơi tự do của hai vật thể riêng biệt: trọng lượng con người tách rời trọng lượng phi cơ, con người không c̣n là điểm tựa tên mặt phẳng của chiếc máy bay. Bàn tay của viên kỹ sư phi hành đă mấy lần đụng chạm đến cần khóa cửa thoát hiểm bên cạnh chiếc ghế ngồi của ông, được đặt dưới sàn trong ḷng pḥng lái phi cơ, bao lần nó đă vuột khỏi tầm tay v́ sức rơi chao đảo, nghiêng ngă và lơ lửng trong ḷng phi cơ.
Chiếc phi cơ nghiêng đổ hẳn về một phía, Những đôi mắt kinh hoàng của họ trừng trừng khiếp đảm nh́n xuống ḷng đất cứng rắn hăi hùng, phút chốc nữa đây phi cơ của họ sẽ phải va chạm nổ vỡ tung. Những quả tim, bấn lọan hồi hộp theo cảm nhận của sự chết trong 40 giây ngắn ngủi c̣n sót lại qua sức rơi chao đảo của phi cơ từ 2,000 bộ xuống mặt đất.
Tinh Long 821 AC-119 Phi hành đoàn cuối cùng của KhôngQuân Việt Nam Cộng Ḥa hy sinh cho Tổ Quốc sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ngay trên không phận ṿng đai phi trường Tân Sơn Nhất Thủ Đô Sài G̣n.
Tử thần đang chào đón họ trong 40 giây của sự sống cuối cùng, 40 giây để thở, tim vẫn đập, máu vẫn lưu thông, 40 giây của tâm hồn rối loạn, để cảm nhận sự chết của một con người, truớc khi tất cả đều dập tắt theo tiếng nổ kinh hoàng, sự va chạm của phi cơ vào ḷng đất.
Mười giây sau cùng, Trung úy Thành đă nhắm nghiền đôi mắt đầy lệ thương xót cho người vợ trẻ và hai con dại vẫn hiện hữu trên thế gian. Họ đang lo lắng và chờ đợi một “cuộc di tản không bao giờ có” của chàng đă hứa. Viên kỹ sư phi hành ngồi ở chiếc ghế phía sau, Trung sĩ Nhất Phan Quốc Tuấn, người đă dũng cảm t́nh nguyện, chấp nhận chuyến bay trên phi vụ sinh tử cuối cùng của Trung úy Thành, ông đă cùng chung hoàn cảnh một vợ và hai con thơ đang ṃn mỏi trông đợi cha về.
Tâm hồn phi hành đoàn ch́m vào bóng tối theo tiếng nổ long trời, hồn biến, xác tan, để đi vào cơi an lạc, chấm dứt một đời người kiêu dũng trên không trung. Để rồi tên tuổi các anh vẫn sống măi trong ḷng người và lịch sử của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, với ư chí sắt đá “hiến thân cứu nước”và quyết tâm “v́ dân diệt bạo”.
CHỐNG CHỎI TỬ THẦN
Kể từ khi xuất hiện loại vũ khí hỏa tiễn tầm nhiệt độc hại trên địa cầu, do khối Cộng sản Quốc tế yêu chuộng, chủ chiến, chuyên gây rối trên thế giới, xúi giục và yểm trợ những chính trị gia độc tài quốc tế, tham vọng gây chiến tranh để cướp giựt lănh đạo, gạt bỏ những sự lựa chọn người tài ba ra điều hành đất nước của nguời dân, áp đặt những chế độ độc tài lên họ, đánh hỏa mù để hưởng tư lợi cá nhân. Chúng đă sáng tạo ra những loại chiến cụ mới gây khiếp đảm cho khối tự vệ, yêu chuộng tự do, công bằng và dân chủ. Trong đó có Miền Nam Việt Nam. Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Ḥa đă gặp rất nhiều khó khăn và thiệt hại nặng nề với hàng lọat phi cơ bị bắn hạ bằng loại vũ khí tầm nhiệt SA7 lợi hại này.
Trong chiến tranh, không ai có thể lo lắng hơn những nhân viên phi hành của Không lực Việt Nam Cộng Ḥa và Hoa Kỳ. Những người phải đối diện trực tiếp với loại vũ khí ghê gớm SA7 này. Mỗi nhân viên phi hành của Không Quân đều đă phải suy tính, tự học và luyện tập để chuẩn bị cho chính ḿnh một con đường thoát hiểm nhanh nhẹn nhất truớc những đe dọa của loại vũ khí có sức tàn phá khủng khiếp, nhanh chóng và chính xác như loại hỏa tiễn tầm nhiệt của khối Cộng sản.
Phi hành đoàn của Trung úy Trang Văn Thành cùng tâm trạng lo âu và đă tiên liệu truớc những sự nguy hiểm của loại vũ khí hỏa tiễn tầm nhiệt, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trên các phi vụ của chiến trường Miền Nam Việt Nam.
Ngay khi phi hành đoàn của họ đă cảm nhận phi cơ của họ đă bị trúng đạn pḥng không. Tám nhân viên phi hành hiện diện trên phi cơ đều cùng có một cảm nghĩ và hành động t́m kiếm cá nhân, hay họ phải chú tâm đặc biệt đến những cánh cửa thoát hiểm gần họ nhất, ngỏ hầu nhanh chóng thực hiện một cuộc thoát hiểm cấp tốc khỏi phi cơ truớc khi nó không c̣n điều khiển được nữa. Trung úy Trang Văn Thành đă không tiên đoán trước được phi cơ của ông sẽ găy cánh trong 10 giây sau tiếng nổ. Nhân tính dũng cảm và quyết tâm cố mang phi cơ ra khỏi khu phố G̣ Vấp đông đảo, sự an toàn cho sinh mạng người dân. Ông đă kêu gọi đồng đội b́nh tĩnh, ở lại phi cơ. Bày nhân viên phi hành đă tuân lệnh, sáu người đă không thoát hiểm được khỏi phi cơ và chết tan xác theo chiếc máy bay định mệnh.
Tại pḥng hàng hóa của phi cơ nơi trang bị 4 khẩu súng minigun 6 ṇng và 2 khẩu đại bác liên thanh 20 ly, cùng hàng tấn đạn dược và hỏa châu. Pḥng làm việc của các chuyên viên vũ khí phi hành.
Nhân viên phi hành chống chỏi tử thần dữ dội nhất để thoát khỏi bàn tay của thần chết, đó là trung sĩ Chín, nhân viên vũ khí phi hành. Ông đang bám chặt ở cánh cửa hành khách bên phải của chiếc phi cơ, kể từ khi chiếc máy bay của họ bị trúng đạn pḥng không.
Trung sĩ Chín vẫn c̣n đủ b́nh tĩnh, bám chặt khung cửa, vật lộn với thời gian, chiến đấu với tử thần. Trung sĩ Chín vất vả, quần thảo để tháo gỡ chiếc chốt pin khóa chặt dàn phóng trái sáng vào chân, chúng án ngữ kín mít ở cửa pḥng hành khách, ông không thể nào rướn người ra khỏi phi cơ.
Đă mất 10 giây trong sức rơi vùn vụt, cực nhanh của phi cơ. Trung sĩ Chín may mắn giật được chốt pin khóa dàn phóng trái sáng, nó rời khỏi chân dàn phóng rơi xuống mặt sàn phi cơ, để lộ một khoảng trống của khung cửa bao la. Đúng lúc chiếc phi cơ nghiêng đổ về bên phải, Trung sĩ Chín dùng hết sức b́nh sinh dồn lên đôi chân cứu rỗi, nhanh như cắt, ông búng mạnh đôi chân vào thành phi cơ, để truợt chân người rơi ra khỏi đống thép vô dụng đang lao vùn vụt xuống mặt đất.
Trung sĩ Chín rời phi cơ khi chiếc máy bay của ông đang rơi và cách mặt đất độ 600 bộ, chừng 200 mét. Trong 10 giây ngắn ngủi sau cùng c̣n sót lại cho sự sống. Chín đă lảo đảo trong không khí, đôi tay vẫn chới với, quờ quang t́m kiếm khóa giật để bung dù, chiếc dù đeo lủng lẵng chỉ một bên của thân người gây nhiều khó khăn.
Chiếc dù vừa bọc gió đúng lúc Trung sĩ Chín cũng vừa rơi xuống mặt đất. Ông đă thoát nạn, nhưng đă bị chấn thương nhẹ nơi cột xương sống.
Đồng lúc một tiếng nổ rung chuyển trời đất, quả cầu lửa rựng lên, sức nóng bức của bom đạn ḥa lẫn xăng cháy dữ dội, hắt vào người trong khoảng cách gần 100 thước, nơi Chín đă vừa rơi xuống từ phi cơ hư hỏng, vô phương cứu chữa.
Tuần lễ sau, Trung sĩ Chín đă t́m đến nhà anh trưởng phi cơ Trung úy Trang Văn Thành. Lúc đó chị Vơ Thị Ḥa là vợ anh Thành đă đi vắng. Chín đă kể lại những chi tiết trên chuyến bay cuối cùng của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa với chị Bùi Vơ Thanh, chị ruột của chị Ḥa. Trung úy Thành và 6 đồng đội khác đă không thoát khỏi phi cơ và đă tử trận theo con tàu AC119K, lúc 8 giờ sáng ngày 29/4/1975 tại Tân Sơn Nhất.
Trung sĩ Chín xác nhận Trung úy Thành đẽ đền nợ nước, chết theo phi cơ. Một hung tin mà gia đ́nh chị Ḥa đă biết mấy hôm trước do các nguồn tin từ những người bạn thân cùng đơn vị của anh Thành đă lén báo tin và xác nhận về cái chết anh dũng của anh Thành.
Trang Văn Thành đă tự điều động một phi hành đoàn c̣n đầy đủ tinh thần chiến đấu và tự nguyện hiến thân cho đất nước. Một phi hành đoàn duy nhất c̣n sót lại của Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa và của Quân đội Miền nam Việt Nam. Họ đă làm nên trang chiến sử oanh liệt cuối cùng trong giây phút kết thúc chiến tranh Việt Nam, và Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa này đă tan ră và “bại trận”.
KINH NGHIỆM HỎA TIỄN TẦM NHIỆT SA7
Nhiều nguồn tin, suy đoán không chính xác và họ cho rằng nhân viên phi hành đoàn của Trung úy Trang Văn Thành đă chết trên phi cơ, ngay sau khi đạn pḥng không SA7 nổ tại động cơ. Họ đă chết trước khi phi cơ găy cánh và rơi xuống đất. Điều này đúng hay sai?
Qua kinh nghiệm nhiều chiếc phi cơ của Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa bị pḥng không hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 bắn rơi, sự suy đoán này không chính xác.
Thứ nhất, trái đạn hỏa tiễn tầm nhiệt là một loại đạn cá nhân, nó nhỏ và nhẹ để dễ di chuyển, so với các loại bom miểng của đại bác hay hỏa tiễn khác có tầm sát hại rộng lớn. Mục đích chính của loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 không chủ đích phát ra nhiều miểng đạn để sát hại nhân viên phi hành trên không trung. Mục đích chính là nó phá hủy phi cơ. Quả đạn nổ làm rối loạn và hủy họai động cơ máy bay, hủy diệt sức kéo hoặc đẩy phi cơ đi tới. Đồng thời, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 cũng làm rạn nứt lớp vỏ của cánh phi cơ, với những loại máy bay mang động cơ trên cánh. Nó hủy diệt sự chịu đựng sức ép của không khí đè lên mặt cánh và gây ra sự găy đổ. Khiến phi cơ bị hủy hoại cả hai: sức kéo hoặc đẩy của động cơ và phá hủy bộ cánh lái điều khiển chiếc máy bay.
Lư do thứ hai, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 không thể phát ra nhiều miểng đạn để sát hại nhân viên phi hành. Loại hỏa tiển tầm nhiệt đặc biệt này chỉ t́m sức sống, chui vào và nổ bên trong ḷng động cơ. Động cơ được bao bọc bởi một lớp vỏ thép cứng rắn, đă cản trở hầu hết miểng bom, sức công phá không văng tung tóe, rồi miểng quả đạn phải xuyên qua nhiều lớp vỏ của cánh và vỏ của thân phi cơ, khiến nó không thể sát hại quân nhân Không Quân phi hành như những loại bom đạn thường khác. Dựa trên những dữ kiện chính xác qua ba truờng hợp của Không Quân VNCH bị bắn rơi bởi pḥng không SA7. Phi hành đoàn đă bị tử nạn v́ sự chậm trễ của họ. Phi cơ nhanh chóng chuyển đổi trạng tháng rơi tự do, tách rời trọng lượng con người ra khỏi điểm tựa trên mặt bằng phi cơ, họ không c̣n đứng vũng để mở cửa hoặc đến gần cửa để thoát hiểm. Chúng ta biết rằng, khi phi cơ đang ở trạng thái rơi tự do. Cả hai trọng lượng con người và trọng lượng phi cơ tách rời nhau như hai vật thể riêng biệt cùng rơi trên không gian, nên con người cũng ở trạng thái lơ lửng trong ḷng phi cơ.
Trường hợp thứ nhất
Một chiếc F5 hai động cơ phản lực đă bị trúng đạn pḥng không SA7. Một máy bay phản lực bị phá vỡ trên không, động cơ c̣n lại chỉ nằm cách động cơ kia không quá một mét, không bị hề hấn ǵ, máy nổ vẫn tốt. Ghế phi công đặt cách động cơ bị phá hủy độ 3 mét. Phi công vẫn b́nh an vô sự, ông đă không nhảy dù ra khỏi phi cơ, vẫn bay và cố mang phi cơ về đến phi trường và đáp khẩn cấp an toàn xuống phi đạo. Sỡ dĩ, hệ thống cánh lái điều khiển phi cơ bay về là v́ động cơ phản lực F5 được đặt trên thân phi cơ, không liên hệ ǵ đến cánh và các bộ phận điều khiển chiếc máy bay. SA7 đă không hủy diệt được các hệ thống cánh lái điều khiển chiếc phi cơ F5 này.
Trường hợp thứ hai
Một chiếc EC47, Không Thám Điện Tử, thuộc phi đoàn 718, phi cơ bị trúng đạn pḥng không SA7 tại mật khu của địch. Chỉ một ḿnh viên sĩ quan Điều hành viên có chuẩn bị, đă nhảy dù ra khỏi phi cơ truớc khi máy bay găy cánh, rơi tự do. Ông đă sống sót, bị địch bắt làm tù binh. V́ thế chiếc ghế của điều hành viên đặt gần động cơ bị phá hủy nhất, độ hai thước. Viên sĩ quan này đă không bị miểng hỏa tiễn SA7 gây thương tích hoặc sát hại. Toàn bộ đoàn viên phi hành đoàn khác đều chậm trễ, trong trạng thái phi cơ rơi tự do, không thoát hiểm được và chết theo phi cơ.
Trường hợp thứ ba
Tương tự chiếc phi cơ Không Thám Điện Tử EC47. Trung sĩ Chín, vũ khí phi hành của phi hành đoàn AC119K, cũng đă nhảy dù thoát hiểm khỏi phi cơ, nhờ may mắn khi ông đang ở trong trạng thái rơi tự do, nhưng ông có chuẩn bị đă bám ở cửa phi cơ không có cánh cửa. Vị trí làm việc của ông trong pḥng hành khách là nơi gần động cơ bị phá hủy nhất, ông đă không bị miểng đạn SA7 gây thương tích hoặc sát hại, tương tự viên sĩ quan Điều hành viên EC47.
Cả ba truờng hợp chứng tỏ quả đạn pḥng không SA7 không có chủ đích sát hại phi hành đoàn bằng sức công phá của miểng đạn. Nó chỉ nhằm hủy hoại phi cơ để sát hại phi công và phi hành đoàn, những ai thiếu chuẩn bị, chậm trễ, không rời khỏi phi cơ truớc khi nó chuyển đổi sang trạng thái rơi tự do.
Như vậy, phi hành đoàn muốn toàn mạng phải chuẩn bị sẵn dù và nhảy ra khỏi phi cơ trước khi phi cơ găy cánh hoặc động cơ hư hỏng không c̣n sức kéo hoặc đẩy, đưa đến trạng thái phi cơ rơi tự do.
Nhận diện sự khác biệt giữa hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 và các loại đạn pḥng không khác ở chỗ, loại SA7 chỉ nổ ngay bên trong ḷng động cơ với âm thanh tiếng nổ khác thường do động cơ đă bịt kín. Tiếng nổ ấm và nhỏ hơn các loại tiếng nổ của đạn pḥng không khác. Các loại đạn pḥng không thường khác chỉ có khuynh hướng chạm nổ và phá hủy mặt dưới của thân và cánh phi cơ, do dưới đất bắn lên không. Miểng đạn của nó không bị sự cản trở nào nên tầm sát hại rộng lớn hơn. Vả lại, các loại pḥng không thường khác không nhất thiết phải trúng vào động cơ và cũng khó có thể đánh trúng chính xác vào phi cơ đang bay với tốc độ. Ngoại trừ, phi đạn SA7 sẽ bay đuổi theo sức nóng của động cơ, phát nổ và phá hủy.
CẢM PHỤC L̉NG DŨNG CẢM CỦA PHI HÀNH ĐOÀN AC119K
Ḷng dũng cảm đáng kính của phi hành đoàn AC19K ở chỗ, giờ phút lâm nguy cuối cùng, tính mạng bị đe dọa. Xem nặng tính mạng của người dân. Tất cả nhân viên phi hành đều tuân lệnh trưởng phi cơ, nán lại, không rời bỏ phi cơ, tiếp sức Trưởng phi cơ cố hoàn thành nhiệm vụ mang phi cơ ra khỏi thành phố đông đúc dân cư, có thể sát hại nhiều người dân. Để rồi phi cơ bị găy đổ chỉ 10 giây sau tiếng nổ của đạn pḥng không SA7, trước khi họ đạt đuợc ước nguyện mang phi cơ ra khỏi thành phố.
Trung sĩ Chín đă t́m đến cửa thoát hiểm ngay sau khi đạn nổ tại động cơ. Ông đă dừng lại khi nhận lệnh của Trưởng phi cơ, chỉ 10 giây phi cơ găy cánh đưa đến trạng thái rơi tự do. Trong sự tuyệt vọng, thúc dục đoàn viên thoát hiểm khỏi phi cơ của Trưởng phi cơ. Chín đă vất vả chống chọi với tử thần, mất một nửa khoảng thời gian lộ tŕnh phi cơ rơi trong không trung. Ông may mắn thoát hiểm và đă bị trọng thương.
US COPYRIGHT 2005, BY THÀNHGIANG
Sử liệu CUỘC TỬ CHIẾN TRÊN KHÔNG PHẬN SAIG̉N của Thành Giang là những tư liệu đă được cấp phát bản quyền Hoa Kỳ 2005. Tài sản của tác giả và thân nhân cung cấp tin tức cùng h́nh ảnh những vị anh hùng tử trận trên chuyến bay AC119K của Không lực Việt Nam Cộng Ḥa tại Tân Sơn Nhất.
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
The Following 5 Users Say Thank You to hoanglan22 For This Useful Post:
"Thành kính tưởng niệm các chiến sĩ Địa Phương Quân anh dũng đồn Dak Seang"
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm” Đại úy Ngọc tḥng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái.
Đồng ư đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả v́ ḷng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị x́ lốp.
Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 555, chiều
đại yến với la-de, nem nướng, ṣ huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra đi như thế này th́ thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm ḥa.
Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hăi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng ḿnh… rớt máy bay chết rồi bèn đi cặp thằng khác th́ hết một đời trai.
Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một tên chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy… hết muốn bay bổng.
Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt tên Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười.
Nh́n thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ.
Tôi phản đối “ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối th́ chẳng bao giờ lớn được”.
- Chưa lấy vợ th́ khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng ǵ anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay ṿng ṿng như con mắm có ǵ mà huy hoàng. Lại c̣n phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xác thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ… mất đào ở nhà.
Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí.
Hậu sinh…. chẳng biết mẹ ǵ cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị của những ngày biệt phái. này nhé, ở nhà với vợ, có chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải tŕnh, tiền bạc phải “báo cáo”đầy đủ.
Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời th́ phải sống có qui củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp tên nào cũng muốn kiếm thêm tí điểm th́ phải biết điếu đóm v..v..
Đi biệt phái, nói một cách văn chương, đó là “những ngày nghỉ mát” v́ thứ nhất ḿnh thoát khỏi ṿng cương tỏa… bà tư lệnh , muốn làm ǵ th́ làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn khoe ḿnh chưa vợ hay vợ… mới chết th́ đó là quyền của ḿnh.Các cô thôn nữ vốn dễ dăi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay thắc mắt lôi thôi .
Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không g̣ bó như ở phi đoàn. Ḿnh tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú.
Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày ḍm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh.
Phải có “Action” phải có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v. Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đă thấy xiêu ḷng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách ǵ ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy h́nh như tôi đă thấm ư, nên kết luận :
– Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nh́n lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi. Rồi hứng t́nh, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất…văn học chút nào hết.
T́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở
Đời hết vui khi đă vẹn câu thề
Sau hai câu thơ là một chuỗi cười h́ h́ nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua c̣n ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:
– Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.
Anh Ngọc dễ dăi:
– Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.
Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành…. Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá văng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu.
Cả thành phố Kontum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích….., ai nấy vơ khí trang bị tới răng trông phát khiếp.
Lâu lâu, phải chịu khó t́m ṭi và chờ đúng giờ tan học mới nh́n thấy được vài tà áo dài phất phơ cuả các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lơng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ.
Đứng nh́n ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.
Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im.
Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường
- ” Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C…ǵ mà bắn độc thế ? Sao không về nhà mà bắn… bà xă cho được việc”, một giọng càu nhàu cất lên.
Lại có giọng khác hăm dọa ” ngày mai tao phải “phản đấu”mới được. Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội.
Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy “phản đấu” ai một lần th́ ông ăn cơm mới ngon.
Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt th́ lại “ầm” một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm
- “ Đ..” mọa nó, bén chi mà bén miết..”.
Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi… Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.
Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới.
Cuộc đời là địa ngục th́ chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đă tận mắt nh́n thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ỡ ngủ v.v..
Các anh cũng là người với những cảm giác b́nh thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết.
Mănh lực nào. sức lôi cuốn nào đă khiến anh em từ bỏ gia đ́nh ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh.
Trở thành người linh bộ binh để “chết thay dùm dân tộc” để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy .
Chắc chắn không phải để lănh số lương mười mấy ngàn , chỉ đủ mua bao gạo. Cũng không phải v́ sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngơ. Cũng càng không phải v́ mủi ḷng bỡi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay v́ câu hát của Hùng Cường, Mai Lệ Huyền.
Tôi nghĩ, anh em đă ra đi chỉ v́ ḷng yêu nước. V́, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn.
Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ “Yêu” yêu Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường giá cả.
Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rơ.
Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông g̣n nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn.
Có *… Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đă lẩm cẩm mà người lại c̣n lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông g̣n ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:
– Mày làm cái tṛ khỉ ǵ đó ông Thiếu úy On ?
Nó đáp tỉnh queo :
– Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.
Tôi suưt bật cười. Đúng là * lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông g̣n ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu:
– Tao có ư kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông g̣n ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh ḿnh, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.
Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc ḷ của tôi, * On chửi thề:
– Đ.. M.. * mất dạy. Mày mà đ̣i móc ḷ tao sao được. Tao đâu có ngu.
Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người qủa thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ c̣n nhớ Thủy… sơ sơ thôi chứ không c̣n “nồng nàn da diết” như những ngày mới đến đây nữa.
Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương. Cô Cashier coi xinh không chịu được.
Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi… ĺ đến tới tối. Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể ǵ kiếm được một cành hoa.
Tôi để ư thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là… màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được. Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi..
Có mấy lần tôi tính tḥ tay ra sờ mông em th́ bị nó gạt phắt đi, điệu hung hăn làm như nó… chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu ǵ hay tán tỉnh ǵ th́ kệ nó, tôi không để ư tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định dành trả tiền cho kỳ được.
Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối cái mục này. Tôi biết * khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết.
Chả trách ǵ nhà văn Shakespeare đă phán một câu :
“Everybody loves the lover”. Cả thế giới đều yêu một kẻ si t́nh.
Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục tên như Thiếu úy On th́ tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh :
- ” Vừa phải thôi… tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày.”
Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn ” giặc cỏ” đến quấy rối rồi lặn mau như chuột. Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau th́ trên trời biết ăn thua với ai.
Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi ”duy tŕ khả năng” bắn rocket.
"Duy tŕ khả năng” là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn pḥng, sợ lâu quá không bay th́ lúc leo lên tàu, th́ quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay “duy tŕ khả năng” cho khỏi quên.
Tôi th́ khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như ‘Dăng gô” bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó. Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán v́ lối bắn mất dạy.
Bay trên mục tiêu, tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp c̣. Bắn th́ dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực h́nh.
“ G ” đâu mà lắm thế, mặt mũi cứ dài ra cả thước nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn. Nhiều khi anh c̣n nh́n “tác phẩm” của tôi phê b́nh :
“ Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19 . Đúng là con nhà vô phúc”.
Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài ṿng, tôi hỏi đại úy Ngọc :
– Hay ḿnh làm vài ṿng, nếu không có ǵ th́ đi kiếm cái cḥi thượng nào đó “duy tŕ khả năng” rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.
Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối :
– Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.
Có cái ǵ thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:
– Mày để ư thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không ?
Tôi chả biết ǵ, trả lời :
– Yên th́ có yên đó, nhưng mà có ǵ không anh ?
– Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
– Mai ḿnh về rồi, nhằm nḥ ǵ.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. [b][size=3][color=indigo][i]Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một ṿng.
– Để tao coi. Đ.M. h́nh như đồn này đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên :
– Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những ǵ ḿnh thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công.
Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô th́ bổng hàng chục cây pḥng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu v́ tôi nghe lên vài tiếng bụp bụp.
Tôi càu nhàu:
” 15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lănh một viên vào.. đít là xui quảy..” vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê b́nh:
–" Trên trời mà pḥng không “kèm cứng một rừng” như vậy là dưới đất nó đă chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng th́ đồn này chắc mất tối nay. "
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi ŕnh ŕnh lại chui vào từ một hướng khác.
Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây “broken” từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây th́ phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ.
Đại úy Ngọc chửi thề :
- “ Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây.”
Tôi đă cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng pḥng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên “súng đâu mà chúng nó lắm thế” . Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây…VC này.
Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nă từng trái một vào đồn.
Từ trên, tôi nh́n thấy rơ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo “phụ diễn”.
Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đă nghe ở dưới đất kêu trời:
– Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới… Têt cũng huề.
– Th́ bạn quay ṇng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.
– Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ – Yếu tố mẹ ǵ, bắn đi bạn….
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:
– Bạch Ưng, đây Thanh Trị.
– Nghe 5 bạn
– Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.
Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông một diện tích tí teo như thế kia th́ c̣n hầm c̣n hố nào.
Anh Ngọc bổng nẩy ra một kế…chết người.
– Nếu để nó pháo điệu này th́ chừng tí nữa quân ḿnh chẳng c̣n ǵ hết. Ḿnh phải “chiến tranh chính trị” mới được.
– Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đ̣i…chiến tranh chính trị anh ?
Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.
– Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là…có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần th́ ḿnh phải làm như có phi tuần. Ḿnh phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới th́ pháo nó mới câm được.
– Xong rồi .
Mặc dù vẫn c̣n ngán mấy chục họng pḥng không nhưng trong hoàn cảnh này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
– Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.
Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc th́ nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó c̣n ai khác hơn tôi. Bỗng nhớ ra điều ǵ, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:
– Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi. Nhưng anh nói ngay:
– Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi em.
Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lư do ǵ đó để tự tin và hy vọng.
Càng đi xa đồn th́ pḥng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đă nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn ṿng chung quanh cây pháo.
Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng “everywhere”. Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền.
Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang “tùng thiết” đi vô chăng ? Dĩ nhiên pḥng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn.
Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui.
Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:
– Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó…bỏ bomb thấy mẹ mày.
Tức quá mà không làm ǵ được th́…chửi cho đă tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi ǵ được.
Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:
– Thạnh Trị, đây Bạch Ưng
– Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.
– Có sao không bạn ?
– Không, mấy chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc c̣n “tới” lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy Tây đánh đẹp lắm.
– Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.
– Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.
– Tôi hiểu bạn.
Cây 130 ly quái ác vẫn đ́ dạch phọt ra từng cụm khói đen.
Tôi bảo anh Ngọc :
– Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra….
– Ờ, may ra….
Tôi làm ṿng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp c̣. Oành cái Rocket nổ…gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết * chó nào đâu?
Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt ! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên.
Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó…đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của t́nh chiến hữu.
Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
– Thạnh Trị, đây Bạch ưng
– Nghe bạn 5.
– Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu ?
– Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.
– OK ! Roll
Phi tuần khu trục vừa xuất hiện th́ cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng pḥng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng ḍm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa.
Trời đă về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rơ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo pḥng không v́ trời quá xấu.
Những đám mây…phản quốc, khốn nạn vẫn ch́nh ́nh khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn pḥng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên.
C̣n 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 “để” vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây.
Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thứ hai đang làm ăn th́ tôi nghe tiếng gọi:
– Bạch ưng, đây Thạnh Trị
– Nghe 5 bạn
– Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.
– Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.
– Bạn…
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. “ra giao thông hào với mấy đứa con” vậy là bi đát lắm rồi.
C̣n tiếp ,
Last edited by hoathienly19; 10-14-2020 at 07:34.
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
- Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ "over run" Dakseang trong ṿng nửa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM, Anh Ngọc cẩn thận dặn ḍ thêm:
- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp...dái th́ cha con nó mới chịu chạy dùm.
Tôi ph́ cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được v́ ḥ hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay.
Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc.
Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
- Nghe bạn 5
- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang "à lát xô" lên.
Huy hiệu Địa phương quân (trên nón beret xanh dương)
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 c̣n mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.
- Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
- C̣n phải hỏi.
Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. T́nh h́nh lúc này đă bi đát lắm rồi.
Giặc xung phong lên ào ào.
Thạnh trị thông báo là một góc pḥng tuyến đă bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc.
Tôi nghe Trung tâm hành quân "TTHQ" thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc.
Anh Ngọc bảo tôi:
Tao c̣n lạ ǵ cái tṛ này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận.
Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gă trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào..
Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm ṿng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ.
Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông "Roger" và "Sir"lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đă đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai.
Từ khoảng 15 ngàn, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác. Pḥng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua ǵ với mấy chiếc F4 này.
Đang đánh ngon lành th́ tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:
- Bạch ưng, đây Thạnh trị
Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà b́nh tĩnh lạ thường.
Anh Ngọc bấm máy:
- Nghe bạn 5, cho biết t́nh h́nh đi bạn.
- Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.
Cả hai chúng tôi giật nẩy ḿnh, chỉ hy vọng là ḿnh nghe...lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được.
Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:
- Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn ?
- Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.
- Bạn suy nghĩ kỹ chưa ?
- Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn :
- Không c̣n lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" mà bạn...
Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang :
"Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi".
Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa.
Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không c̣n liên lạc được với Thạnh Trị nữa. Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định:
- " Cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải... cẩn thận.
- "Cẩn thận con C... ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thong báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn.
Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:
- Roger! Sir, Did you say...right on it ? Over
- Yes sir, it's all over. I said you salvo right on it. Over.
- Roger, sir, I understood, sir, Over.
Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom.
Tôi đang chứng kiến một h́nh ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói ǵ lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH ?
Tất cả những ngôn từ, những ư nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần.
Làm sao c̣n có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?.
Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đă tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất.
Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của ḿnh vừa anh dũng đền nợ nước, vừa " Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc...
Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vă lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ.
Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? h́nh ảnh nào có thể thay thế được h́nh ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời c̣n lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời ?
Dân tộc tôi đă làm ǵ nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu nói nghe được từ thuở học tṛ bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ư đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan ḥa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn.
Qua màn lệ nhạt nḥa, tôi chẳng c̣n thấy ǵ, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn.
Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn c̣n vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời.
Mây ơi là mây, c̣n sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đă chết, đồn đă mất sao c̣n lảng vảng để khóc thương.
Trời chiều cao nguyên vốn đă thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn.
Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những ṿng tṛn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH.
Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng ṿng quanh xác chết của đồng loại.
Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
- Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this:
Those people down there have fought like men and have gone in honor.
Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào :
- Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.
Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
- Roger ! We have thousand of Alamo like that every day in our country.
- Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.
Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm.
Alamo, cái tên nghe đă đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện.[/i][/color][/size][/b]
Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ.
Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ "Y pha nho" mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đă tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đă bị tàn sát.
Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục.
Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo c̣n tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.
Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đă cày nát khu tập trung quân giặc.
Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị.
Nhưng chả c̣n Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa.
Đồn Dakseang chỉ c̣n là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nh́n xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua.
Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đă ngàn thu vĩnh biệt. Bay thêm vài ṿng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giă để ra đi.
"Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi"
Thôi th́ xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh.
Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi.
Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh.
Địa Phương Quân, thứ lính...âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực
- Không màu mè
- Không áo rằn ri
- Không có những huyền thoại khủng khiếp
- Không "truyền thống, binh chủng"
- Không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người.
Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đă b́nh tỉnh xin :
" Cho nó nổ trên đầu tôi". "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi"
Xin vĩnh biệt và cảm tạ.
Cảm tạ các anh đă đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống ḿnh để đổi lấy cho quê hương dù đă rách nát tả tơi c̣n có được những ngày xanh hy vọng.
Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn c̣n được an b́nh.
Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng c̣n rộn tiếng trẻ thơ cười.
Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi c̣n được ngân lên những hồi chuông tín mộ.
Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng ḿnh sống tức c̣n nợ phải trả....
Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc long tôi thuộc làu làu lúc c̣n là một đứa bé :
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đă xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho tổ quốc
Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Những kẻ sống ḷng son không biến chuyển
Tuy tên họ không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đă len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và linh hồn chung với tấm t́nh trung
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.
Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh.
Các anh chính là những "Anh Hùng Vô Danh". Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ c̣n ghi ơn các anh.
Xin vĩnh biệt và cảm tạ .
Trường Sơn Lê-Xuân-Nhị
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
CHIẾN ĐOÀN 1 XUNG KÍCH / SỞ LIÊN LẠC / NHA KỸ THUẬT
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thụ, Sĩ Quan Điều Nghiên và Không Thám, đánh thức chúng tôi dậy vào lúc năm giờ sáng, thông báo ba mươi phút nữa Toán đươc đưa ra phi trường. Cường nhóc bị thương ở lại NKP...
Toán chúng tôi c̣n lai năm người hành quân, gồm :
- Trung Sĩ Quang (Trần Quang) Toán Phó (One one) phụ trách điện đàm, c̣n lại là bốn toán viên Biệt Kích Quân (BKQ).
Chiếc MC130 Blackbird, loại có râu móc trước mũi đề bốc Toán theo kiểu James Bond 007 (Fulton Skyhook Extraction System).
Cửa sau đă mở sẵn chờ đợi cửa sau của xe bít bùng chở Toán. Thiếu Tá Thụ không đi theo.
Máy bay lập tức ra phi đạo rồi cất cánh. Hơn nửa giờ bay, giờ phi cơ đang chuẩn bị hạ cánh, cái cảm giác nặng chịch trong ḷng cùng buốt hai tai, tạo cho tôi cảm giác bay bổng nhưng rất khó chịu trong người.
Một xe GMC chạy đến tận cửa sau máy bay đón chúng tôi. Nh́n vào nóc nhà xây trước mặt, trên nóc nhà hàng chữ “Phi trường Kontum”.
GMC chở Toán đên một khu vực cũng nằm trong phi trường, trên sân sáu chiếc Kingbee sơn mầu blackbird đang chờ, sẵn sàng cất cánh.
Từ trực thăng, cảnh núi rừng trùng điệp. Bên dưới, đám mây trắng kéo thành một vệt dài dưới ánh nắng như chưa đủ sức làm tan loăng. Gió phần phật lốc vào làm ran rắt trên mặt cùng tiếng ầm ĩ của động cơ trực thăng. Người xạ thủ trực thăng, cạnh tôi mời thuốc hút.
Đảo một ṿng, trực thăng chở Toán bắt đầu đáp xuống, theo sau những chiếc đă xuống trước.
Đoàn Kingbee sáu chiếc, chỉ chở năm hành khách. Dưới băi đáp, một Trung Úy người Mỹ thông báo phi hành đoàn cùng toán trưởng vào dự thuyết tŕnh. Ngay tức th́, Thiếu Úy Điệp, đưa cây Car 15 cho tôi, rồi vào Pḥng Hành Quân.
Hai chiếc Kingbee cất cánh và một trong hai chở theo Toán.
Vượt qua những ngọn đồi thoai thoải tiếp nhau, xa xa dẫy núi xanh mờ chắn ngang. Gió dữ dằn tung lốc ào ạt quanh quanh.
Những đám mây lạ lạc bất thần tạt cái lạnh êm êm. Hai chiếc Cobra, đến từ lúc nào đang song hành hộ tống. Sự phối hợp Không Quân bài bản, nhuần nhuyễn với độ chính sác cao.
Dưới kia gịng sông đỏ ngầu mầu đất ngoằn ngoèo chia cắt giữa núi cao và đồi cây. Xa kia, tầng mây trắng như cố bám lấy núi rừng và tuyệt vời hơn nữa, những đám mây mỏng nhỏ lang thang tạo thành bức tranh thần tiên lăng đăng. Người xạ thủ trực thăng ra dấu Toán chuẩn bị. Nh́n ra ngoài, đă thấy rơ chiếc OV10 (FAC) bay đằng xa.
Theo thuyết tŕnh hai chiếc Kingbee sẽ đáp xuống cùng một lúc hai băi đáp khác nhau và chỉ có một chiếc là chở Toán, nhằm đánh lừa địch.
Trực thăng hạ độ cao. Chiếc Cobra đang dọn băi bằng đại liên sáu ṇng và M79 tự động.
Bằng vào một động tác hạ nhanh, trực thăng sát đất rồi trườn xa một quăng. Đáp vội trên con suối cạn, đá lởm chởm. Toán chúng tôi nhanh chóng thoát vào rừng cây.
Cơn mưa ngày qua để lại dấu tích dễ nhận trên bề dầy của lá rụng, nơi sinh sản và cũng là căn cứ của loại vắt độc hại. Mùi khai nồng, hăng hắc của cây lá bung lên như muốn giao t́nh với ánh nắng trên cao. Nhưng nắng chẳng đủ sức xuyên qua tàn cây x̣e rộng dù rằng nắng đang trực diện với đất.
Lặng lẽ chúng tôi cố gắng di chuyển thật nhanh để tránh cái lộ của băi xâm nhập. Khi máy bay đi rối, chắc chắn ở gần đây, địch sẽ đến và thám thính.
Dự đoán không lầm, khi anh em ngồi nghỉ rồi ăn trưa, đất vẫn c̣n nhăo, thêm sự tĩnh lặng, lẫn tiếng thú rừng thỉnh thoảng âm vang rồi vọng lại. Tiếng súng địch bắn để báo động cho nhau.
Rơ nhất vẫn là tiếng gà rừng mà tất nhiên không thể thiếu ở bất cứ một khoảnh rừng nào.
Thiếu Úy Điệp cùng Châu đang căn lại bản đồ lấy phương hướng.
Hào th́ vẫn cái mùi mắm ruốc xả kinh niên mà mỗi chuyến hành quân, vợ tịch thu hết lương khô, xong phát cho một hũ ruốc sả có thề ăn dè được cả tháng. Có tiếng Covey lên bao vùng, tôi mở điện đàm chờ đợi.
Toán Phó Trần Quang đă giao điện đàm cho tôi để thế chỗ Cường nhóc đoạn hậu. Tiếng Đại Úy Ginh (Trần Trung Ginh) trên Covey gọi Toán, tôi chuyển ngay bức điện đă làm sẵn, rồi nhanh chóng di chuyển, đâm xâu vào mục tiêu.
Khu rừng thật rậm rạp. Châu vất vả lắm để mở đường. Len tỏi, lạng lách, đánh vật với cây rừng, khi mà yêu cầu đi đúng đường. Chốc chốc hắn lại phải xem la bàn. Thiếu úy Điệp đi kế Châu, cây Car 15 luôn sẵn sàng bảo vệ.
Trời quá chiều, ánh nắng hắt những tia cuối cùng. Muỗi như vă vào mặt và vắt th́ nhiều vô kể, nó đi t́m mồi như người làm xiếc, di chuyển uốn dẻo thân ḿnh rồi bung tiến tới mồi rất chính xác nếu chúng tôi lộ ra khoảng da thịt.
Điệp đă chọn được chỗ nghỉ ăn cơm chiều. Có tiếng hú vọng lại, trầm ấm, lan tỏa rồi h́nh như lại dội lại. Trên tàn cây lao xao tiếng chim gọi nhau, thiếu đi giọng hót mượt mà ban mai. Tiếng súng địch quân vẫn thỉnh thoảng nổ gọi nhau hay báo hiệu ǵ đó...
Tay lấy lọ thuốc muỗi, xoa thêm vào mặt và tay để đối phó với sự tấn công quyết tử của vắt và muỗi.
Nhá nhem tối, Toán đi t́m chỗ ngủ, lư tưởng nhất vẫn là gốc cây to, rễ bạnh. Trung Sĩ Quang lên đi đầu. Di chuyển êm, chậm chạp và cẩn thận nghe ngóng. Trời tối hẳn, ánh trăng tỏa vằng vặc từ lúc nào.
Đứng nghe ngóng một hồi lâu. Thiếu Úy Điệp ra lệnh ai hút thuốc th́ hút đi... Cẩn thận v́ khói thuốc tỏa rất xa và đó là cái mùi không có ở núi rừng.
Kinh nghiệm cho thấy, có Toán địch theo dơi cả ngày, đem đến, chỉ v́ mùi thuốc lá dễ nhận, địch âm thầm bao vây và tấn công.
Xong, Quang gài lại trái ḿn M14 rồi di chuyển t́m chỗ ngủ. Địa điểm ngủ đêm đă được đồng ư. Toán chúng tôi hạ bàn tọa... Một đám mây đen lao thẳng vào mặt trăng, trời bỗng tối xầm rồi lại sáng. Ba lô là gối, lá cây rừng làm nệm.
Dưới ánh trăng từng ngọn gió nhẹ lay động cây lá truyến tải ánh sáng phản chiếu lung linh. Cảm giác như lạc vào cơi kinh dị. Nghĩ bụng phải nhắm mắt lại ngay và đừng suy nghĩ cố mà t́m giấc ngủ.
Đây là một kinh nghiệm, v́ đă có những toán viên không ngủ được trong t́nh cảnh này, đă thút thít khóc gọi mẹ, để rồi bị chế giễu và sa thải, hay những toán viên đào ngũ chỉ v́ đă từng để lại tiếng thở dài trong đêm hành quân.
Trời sáng, sương đêm c̣n ướt nơi ngực, là đà quẩn trong gió, sương mù mỏng dần theo gió núi lành lạnh. Thông lệ Toán có một tiếng đồng hồ đễ vệ sinh và chuẩn bị cơm nước trong ngày.
Point man Châu trở lại vị trí dẫn đầu, giờ đang cùng Thiếu Úy Điệp căn lại phương hướng, xong Điệp đưa cho tôi bức điện tin vừa viết bằng mật mă. Bất giác tôi nh́n Châu, khăn mầu lá cây cột trên trán, cái răng vàng nh́n thấy rơ bởi cái miệng hắn hô, trên gương mặt lầm ĺ, xa vắng như nhớ vợ.
Tự nhiên tôi bật lên tiếng cười.
Lệnh di chuyển, ngoái lại thấy Trần Quang đang xóa dấu vết. Tiếng súng báo hiệu hôm nay, bên này đă trả lời. Cánh rừng bớt rậm, nhưng cây lớn nhiều.
Thỉnh thoảng vài trái cây ném xuống từ trên cao, nh́n lên thằng khỉ đang nhăn răng cười tay găi găi vào nách. Không gian bao trùm âm thanh núi rừng, nắng chếch trên cao, sưởi ấm cái lạnh bên dưới nhưng không đủ sức.
Châu bất thần ngồi xuống tay ra thủ hiệu dừng lại, mắt nh́n Điệp và tôi. Quan sát động tĩnh rồi ngó về phía trước...
Một con đường ṃn chắn ngang hướng di chuyển. Phân công ba người yểm trợ, Điệp và tôi lum cum đi lên thám thính...
Con đường rất ít lá cây, có nơi nhẵn nhụi, lạ lùng nơi kia loang một vũng nươc nhỏ như có ai mới vừa tiểu tiện. Hoảng hốt tôi kéo Điệp trở lui, miệng lầm bầm :
- " Đồng chí mái " Điệp hỏi lại :
- "Sao Hải biết". Đến nơi đồng đội đang chờ, tôi giải thích... Vết lỗ đái nhỏ, xâu in trên đất, tại vũng nước loang tṛn, hạn chế th́ dứt khoát đó là tác phẩm của phụ nữ, các bà. Gọn ghẽ và thẩm mỹ.
Thiếu Úy Điệp phất tay ra dấu, vượt đường ṃn từng người một, yểm trợ lẫn nhau, đi trên lá cây. Bở hơi tai, chúng tôi đến đươc nơi có thể ngồi nghỉ. Có tiếng Covey trên bầu trời. Điệp vội vàng thêm vài chi tiết vào bức điện.
Đại Úy Ginh từ Covey đang gọi Toán, tôi trả lời và mau chóng chuyển ngay bức điện. Bây giờ tôi mới nhân rơ Thiếu Tá Thụ trên Covey. Hai ông đều nói tiếng bắc nên dễ lộn.
Tiếp tục tiến vào mục tiêu. Nửa tiếng ăn buổi trưa, Toán vội vă di chuyển để tránh địch theo dơi. Châu dừng lại bên tảng đá cao ngút đầu, ngồi xuống rồi đưa tay chỉ.
Một con suối rộng, nước chảy lặng lờ trong kẽ đá. Xa xa mà mắt thường có thể nh́n thấy, bên bờ suối, trên dốc thoai thoải, nép vào những cây cao. Hai dẫy nhà bằng cây rừng tre lá, ẩn nấp dưới những tàng cây. Thấp thoáng vài bóng người. Bên này suối, xa hơn một tí, những ngôi nhà ngắn và nhỏ, lọt xâu giữa những tảng đá lớn. Vài tên bộ đội đang lấy nước.
Toán nhanh chóng di chuyển càng xa càng tốt, nhắm hướng hạ lưu. Thấy có vẻ ổn, Toán dừng lại bàn bạc và đồng ư xin không kích. Định vị trên một vị trí có vẻ kín đáo và thuận tiện cho tác chiến. Tôi vừa ăn trưa vừa lo bắt liên lạc với FAC (Covey OV10), nhưng không được đành phải xài tới hệ thống máy cấp cứu P90. Một lúc sau, khọt khẹt và tiếng trả lời hoi:
Sóng cấp cứu của ai lên với tần số...Tôi thông báo mật danh và được trả lời hăy đợi.
Mười phút trôi qua, động cơ ́ ́ của Covey càng lúc càng rơ. Trong máy PRC74 đă nghe rơ tiếng gọi Toán.
Một ông tây điều không, trả lời mật danh và chuyển lên bức khẩn điện, tôi yêu cầu Không-quân.
Mười phút sau khi nghiên cứu bức điện và điều không. Lời yêu cầu được chấp thuận. Báo cáo với Điệp, hiểu ư Quang và Hào lẳng lặng lấy trong ba lô hai trái ḿn Claymore, hỏi ư Điệp nên gài ở đâu.
Chớp nhoáng Toán đă ở vào vị trí chiến đấu. Nép vào góc hai cục đá to, giữ cái PRC74 ở vào nơi tương đối an toàn. Tôi đang ở giữa bốn đồng đội. Trên tầng cây cao sau lưng, tiếng kêu ré lên đuổi nhau ầm ĩ của đàn chim, chúng đang tung chưởng đánh nhau.
Covey lúc này đang ṿng trên đầu chúng tôi. Hắn gọi Toán và xin mở cửa sổ (ư muốn thấy vị trí Toán bằng chiếu gương).
Tôi cầm cái gương đưa lên mắt, ngó hướng mặt trời, lấy ánh sáng hội tụ tṛn mờ trong gương và qua lỗ nhắm giữa gương chỉnh điểm ánh sáng tṛn mờ lên thẳng Covey đang bay....
- À thấy rồi, xin cho mục tiêu. lúc này không c̣n cần mật mă, mà nói trực tiếp và bạch hóa.
-Lima charlie (tên Covey)nghe đây, ngay tại triền suối, hướng Tây, khoảng cách 1000 mét
-Pa pa oscar (tên Toán) nhận rơ, chuẩn bị panel cho oanh kích.
Một Phantom F4 lúc này đang bay trên trời.
-Papa oscar đây là Li ma charlie. Tao sửa soạn làm t́nh, xin cho ư kiến và trải panel vàng.
Một cú bay xuống như tia chớp, chiếc Covey lao nhanh trực chỉ mục tiêu và trái rocket đă được bắn ra. Nh́n làn khói trắng bốc lên, tôi ước lượng và gọi Covey.
Covey đảo nửa ṿng cung, đầu chúc xuống, thêm một trái rocket thứ hai xuống mục tiêu. Máy bay múc thẳng lên cao, nghiên nghiên rồi ngừa bụng lên trời, tí sau mới lật lại, bay b́nh thường. Với câu hỏi:
-Papa oscar. Đúng mục tiêu chưa. Tao chơi có khá không?
-Lima charlie, Đúng rồi, thật tuyệt. Anh tŕnh diễn giống như Elvis Presley.
-Cám ơn cám ơn Papa oscar. Ha, ha, ha, ha.
Liền tiếp theo sau, chiếc F4 xà xuống một trái bom ghim ngay mục tiêu khói trắng chỉ điểm.
Tiếng nổ vang dội và một cột khói lửa bao trùm bốc cao. Ngay đầu tiên hắn đă xài loại 500 cân anh.
Trên bầu trời lúc này c̣n thêm chiếc A1 Skyraider chả biết đến từ lúc nào? bất thần theo sau chiếc F4
Máy bay như ngừng lại khi khai hỏa một loạt đại bác 50 và rồi hất ra tung tóe như đậu văi những trái bom bi cứ như nắm tay một, rồi nghiêng nghiêng tăng tốc vút lên cao. Chợt tôi hoảng hốt, nh́n thấy làn đạn xanh, đỏ từ dưới đất bắn lên.
-Lima charlie. Đồ chơi có gai, ngươi thấy ǵ không? xanh, đỏ đang lên với bạn.
-Cám ơn, Papa oscar, thấy rơ 5 trên 5, có lẽ c̣n trước cả bạn. Nó sẽ câm họng.
Chiếc Phantom tiếp đến bổ nhào xuống và cắt một lúc hai trái bom, rồi biến mất sau cột khói mịt mù. Tiếng nổ khủng khiếp tạo sư chấn động, mà chỉ nhũng kẻ có tinh thần thép mới không khỏi sợ hăi khi mắt chứng kiến cảnh hăi hùng bom đạn, khói lửa bao trùm
-Papa oscar ghi nhận có tiếng nổ phụ. Xin xác nhận.
-Lima charlie...Đúng rồi và cháy dữ dội, có thể là kho tồn trữ nhiên liệu.
Trên cao họ tinh tường thật, lúc này b́nh tâm tôi mới nhận ra và báo cáo...Tới tấp đánh vào mục tiêu, chiếc A1 bổ nhào ném thêm hai trái bom Napalm . Một vệt dài toàn lửa cháy dần loang, tung lên những cuộn khói đen kịt.
Trên bầu trời đă mất hút chiếc F4 và chiếc A1 cũng nhỏ dần. Sau đám mây cuồn cuộn trắng. Chỉ con lại chiếc Covey quần đảo, để ghi nhận cùng xác định kết quả.
-Papa oscar...Tạm biệt, thằng nhóc. Ta đă biết mi là ai rồi. Chuyển lời khen đến mi, con trai. Ta đi lo phần việc tiếp theo.
Tháo gỡ hai trái ḿn claymore pḥng thủ. Quang và Hào đă sẵn sàng di chuyển. Ngoái nh́n mục tiêu, vẩn tiếng nổ rời rạc và lửa khói bốc cao. Toán nhanh chóng vượt con suối trống trải. Biến vào khu rừng bên kia... Tiếng súng quanh quanh vẫn bắn cú một truyền tin ... hay đang có một cuộc lùng sục của địch.
Chiều tà mang mầu nắng vàng ệch soi rọi trên khuôn mặt mỗi người. Tàng cây rừng thưa cao nghất không đủ sức che chắn ánh nắng chiếu ngang tạo cảnh thu năo ḷng trên cùng h́nh ảnh năm cái bóng đổ dài như ma quái chập chờn.
Cố gắng di chuyển thật nhanh để kiếm t́m sự che chắn. Toán bất chấp sự hiểm nguy, v́ chẳng c̣n con đường khác. Phải nhanh chóng thoát khỏi khu rừng thưa nầy.
Mọi lo lắng rồi cũng qua, địa thế lại thuận tiện. Chúng tôi ăn cơm trong ánh sáng c̣n sót lại trong ngày. T́m được chỗ ngủ, khi bóng tối bao trùm. Núi rừng bỗng trở nên yên lặng kỹ quái, như cố đẩy lùi những xao động vừa qua. Vài tiếng hú gọi nhau thê dài như có vẻ nhớ nhau. Trong ánh trăng chiếu rọi xuyên cành. Năm chúng tôi im ĺm, lặng lẽ đi vào giấc ngủ.
Tiếng ngáy của thằng Hào làm tôi tỉnh giấc, chửi thề trong bụng, tôi nhoài người đưa tay lay gọi nó "mẹ cái thằng, đồ chết tiệt, ăn cho đẫy mám ruốc vào, ngủ rồi ngáy "
Xem đồng hồ, mới bốn giờ sáng. Tôi nín cười v́ bất chợt được thưởng thức bản hợp tấu tiếng người ngáy và gà gáy xen lẵn tiếng đệm âm trầm của thú rừng xa xa.
Điệp h́nh như cũng đă thức. Trần Quang xích lại phía tôi rủ hút thuốc. Tôi buột miệng dút khoát"không được".
Ánh trăng treo ngang in nguyên cành lá trên gương mặt tẽn ṭ của Quang đă xấu lại càng xấu thêm.
Hai trái claymore pḥng thủ đă được thu hồi.Toán chuẩn bị di chuyển. Sương mù dầy đặc làm hạn chế tầm nh́n và cái lạnh ướt hai hàng mi. Có tiêng súng nổ rồi bên này đáp lại. Địch đang truyền tin cho nhau. Đến một con suối cạn, bên kia dốc cao. Ngồi quan sát địa h́nh...
Châu và Điệp đang so lại bản đồ và địa bàn. Hướng đi được xác định, phải vượt suối và khắc phục dốc cao. Châu và Điệp sang trước, ba người bên này yểm trợ.
Đă có nhửng ḥn đá theo chân của Châu, Điệp lăn xuống ḷng suối, phát ra những tiếng va chạm lớn theo đà lăn, gây sự nguy hiểm, chú ư nếu địch ở gần đây. Bắt đầu ba người c̣n lại vượt qua dưới sự yểm trợ của hai người sang trước.
Vào ngay hướng đi của Toán, phía trước thoai thoải cánh rừng thưa, cây cao,bóng cả. Nắng chói rọi một mầu vàng vào từng đốm băi cỏ bên dưới mà không bị che khuất bởi những tàn cây dâm mát. Xa xa tít ngoài, b́a rừng xanh thẵm, đẹp như tranh vẽ.
Địa thế thật bất lợi và rất nguy hiểm cho di chuyển và tác chiến. Lộ nguyên h́nh trong nhiệm vụ Thám-sát đồng nghĩa với nhất chín,nh́ bù. Thiếu úy Điệp ra lệnh pḥng thủ đợi Covey, v́ thường vào giờ này đă lên bao vùng.
Một con khỉ đực lông vàng, to lớn có vẻ đầu đàn, nhăn nhở cười trên cây, tay găi găi mân mê khoe quả quí. Ở phía xa kia lũ chim líu lo, đanh đá đánh nhau hay đùa giỡn ầm cả một góc rừng.
Có tiếng ́ ́ quen thuộc của Covey rồi Thiếu tá Thụ gọi. Tôi gửi ngay bức điện, Điêp đưa cho hồi sáng rồi trao máy cho Điệp trực tiếp xin yểm trợ ...Lệnh chấp nhận và Toán bắt đầu di chuyển.Covey vọng ngay trên đầu.
Bở cả hơi tai, mồ hôi nhễ nhại.
Cuối cùng cũng đă vượt qua trở ngại. Yên tâm hơn với địa thế hiện tại. Vẫn tiếng súng cú một quen thuộc, rồi tiếng đáp trả. Sự đe dọa tinh thần căng thẳng hay một cuộc bao vây đang h́nh thành v́ điên tiết bởi trận oanh kích ngày qua.
Point man Châu bỗng dừng lại. Tôi và Điệp lên quan sát. Con đường rộng, cách chúng tôi chừng tám hay mười mét, ngang hướng đi của Toán. Lên tiếp cận con đường, Điệp chụp ảnh và ghi nhận...
Đường rộng hai mét, dấu vết thường xuyên và đang sử dụng, lá cây không bao phủ hết, ḷi cả đất. Một vết trượt ngắn để lại dấu dép nghiên nghiên. Ngoắc tay ra hiệu cho Toán đi lên, chúng tôi vượt qua con đường.
Nửa tiếng nghỉ ăn trưa. Một tiếng hú lạ tai dài hơi ở hướng bắc, bên này cũng hú đáp lại. Chúng tôi nh́n nhau, ḷng cũng đă hiểu. Sự sợ hăi ập tới chen lấn và len lỏi trong tôi. Nhưng rất may chỉ thoáng qua. Ư tưởng vượt khó, lồng lẫn vài gương mặt mấy em cava, xinh sắn thơm như mít, đă làm tâm hồn dịu lại.
Mồ hôi chẩy dài trên mặt người đi đầu thật vất vả. Cái mặt bóng lưởng bởi thuốc bôi trừ muỗi và vắt nay lại càng bóng thêm v́ mồ hôi. Bất giác mọi người nh́n nhau như muốn hỏi... Tiếng chim ré lên lao xao như đang gặp người lạ...
- " Kệ mẹ nó, tiếp tục, chả có chi "
Tiếng nói khẽ của Thiếu úy Điệp nghe đanh vả gọn. Vẻ lừng khừng. Châu lại tiếp tục mở đường.
Một cơn dâm buổi chiều, che khuất ánh nắng đă ngả về tây. Ranh giới của rừng rậm,lui dần về phía sau. Trước mặt dốc thoai thoải trống trải tối mù bởi nhũng tàn cây x̣e rộng. Nhũng cây cổ thụ vút lên cao vẻ thách thức. Một con đường lớn băng ngang ở phía trước chia cắt bên kia rừng chồi non, bên này cổ thụ.
Toán khựng lại, án binh bất động. Thật đáng ghét, đành chờ tối hẳn... Trung sĩ Quang và Hào vùa giăng xong hai trái ḿn pḥng thủ. Vẫn tiếng súng phát một của địch, vẫn tạo ngay sự khủng bố tinh thần. Chẳng làm chúng tôi mê mụ đi.
Cơm vừa xong,th́ trời vừa tối. Ngồi đợi trăng lên, nhưng thiết nghĩ trăng cũng chẳng đủ sức soi rọi qua những tàn cây rậm rạp, nhưng có thể cũng đủ để không khỏi va chạm.
Âm thanh núi rừng bỗng bừng bừng trỗi dậy,ma quái, huyền bí, năo nuột tiếng thú khàn đục vọng dội thê lương như măi măi cô đơn. Ánh trăng vừa treo chếch, cũng là lúc Toán tới chạm con đường suưt vấp ngă bởi chỗ trũng trên con đường, bước băng ngang khoảng năm bước, lại một vết trũng . Cho tôi hiểu ra rằng, đây là con đường cho xe hơi chạy. Báo cáo xong với Điệp... Lệnh qua đường, t́m chỗ ngủ.
Lắng nghe động tĩnh, nh́n đồng hồ đă mười giờ đêm. Thấy an toàn. Điệp ra lệnh cho Quang và Hào đi gài claymore pḥng thủ... Cố dỗ giấc ngủ, bằng cách nghĩ một chuyện vui rồi vật vờ ch́m dần...
Bỗng giật bắn người lên, tiếng nhẹ xoay người từ đồng đội. Vểnh tai dựng đứng, nghe cho rơ hơn... Từng bước, từng bước. Tiếng bước chân và cành cây khô gẫy. Địch đang di chuyển thẳng vào Toán. Ánh trăng lao xao qua kẽ lá, không đủ để nh́n rơ quang cảnh.
Tiếng bước chân bỗng ngừng lại. Không khí nặng nề lại nặng thêm. Tôi suy đoán địch chỉ cách chúng tôi chừng bốn hay năm mét. Nhưng rồi có tiếng khụt khịt, xong đi thẳng về chỗ chúng tôi. Thở phào nhẹ nhơm, mọi người hiểu ngay chỉ là thú rừng.
Đến gần, con heo rừng cao cả thước đứng đánh hơi một chặp, mới chịu ra đi... Mẹ kiếp, đêm đến thấy vợ chưa về, bực tức đi t́m... Làm hú hồn.
Nằm yên được một chặp.Trong đêm tĩnh lặng.Tiếng động cơ ́ ́ nặng chịch, ngay sau lưng chúng tôi. Chắc chắn trên con đường tối qua, với hai vết lơm hai bên.
Gà gáy lao xao tứ phía, lâu lâu xen lẫn tiếng người ồn ào nhưng chẳng rơ nói ǵ. Trăng đang gặp núi cao bên hông, tỏa ánh sáng mờ đục đùa giỡn cùng sương mù bay bay theo gió. Nghĩ lại quả là đêm của những giật ḿnh.
Liên lạc xong với Covey, chúng tôi lại bỏ sau lưng những ǵ đă qua. Ngày mới lại đến, b́nh thường như đang trong mục tiêu.?!
Mới mười giờ sáng, cái không khí oi nồng, nắng gắt trên cao và gió, gió biến đâu mất. Thời tiết tạo những cơn mưa đầu mùa. Thấy một địa thế ưng ư. Thiếu úy Điệp cho Toán nghỉ lại ăn trưa. Một chiếc phản lực lang thang ầm ĩ trên không.
Ăn cơm xong, tôi thấy đau bụng lạ ḱ. Mượn chai dầu gió của Châu, dùng móng tay cái tôi cạo hai bên khủy tay, nhưng chẳng hết đau. Hay tại hũ mắm ruốc của Hào mà ḿnh đă xin, sơi khi sáng.
Điệp nh́n tôi e ngại. Tôi kêu Quang đưa viên thuốc và rồi :
- " Điệp coi dùm ba lô máy ".
Tôi tất tả ra ngoài, vẹt xong lá cây, khoan khoái phóng thích của nợ. Kéo quần lên trong trạng thái thoải mái. xoay lưng chưa kịp về chỗ. Súng ầm ầm nổ chát chúa. Tôi chỉ kịp nghe tiếng của Điệp ;
- " Hải chạy đi "
Nhanh như chớp, tôi nhắm thẳng hướng bốn người vừa khuất. Mặc cho gai rừng quất vào mặt và cổ, cố sức phóng cho kịp đồng đội chạy trước...
Thế rồi cám ơn Chúa, chúng tôi cũng đă cùng nhau một nơi. Vui thoáng qua. Bất giác tôi và mọi người cùng nh́n nhau. Chiếc ba lo máy của tôi vẫn c̣n trong trận địa. Ứa gan và hoảng hốt, rút vội cái máy P90 phóng làn sóng cấp cứu. Rồi nóng nẩy, điên tiết tôi nói :
- " Trở lại lấy máy ngay,chần chừ là không kịp"
Tự động tôi lao lên trước dẫn đầu, trở lại trận địa, mà cách đây chẳng bao xa.
Bên dưới gốc cây, chiếc ba lo nằm ngang, chứng tỏ khi ra lệnh rút Điệp đả cố kéo mang theo. Quan sát động tĩnh, tôi cẩn thận nhón từng bước, bốn đồng đội yểm trợ phía sau. Chỉ c̣n lại khoảng ba mét nữa,tôi dần ḅ vào.Ngồi dậy sốc cái ba lo vô vai,thở phào nhẹ nhơm. Chỉ là đám trinh sát địch.
Dưới kia hai tên địch chết nằm xấp, vũ khí văng xa. Thiếu úy Điệp ra dấu lại đây, di chuyển. Tôi ra thủ hiệu chờ một tí, lẹ làng băng xuống lấy cây AK gần nhất, tiếc rẻ nh́n cây AK c̣n lại, tôi tặc lưỡi... Ôi, cũng chỉ làm quà cho mấy ông Tây mà thôi.
Cây rừng chằng chịt, cản trở nhiều và lấy đi bao sức lực. Nh́n đôi găng tay đen của Châu, đă thấy rơ những vết sước tráng ởn... Mừng rỡ khi nghe tiếng Covey. Bật điện đàm tôi gọi ngay.
Tôi nhận ra ngay tiếng nói đặc biệt của Đại úy Storter, thanh tao như gái.
Lấy cẩm nang mật mă, tôi đọc và gửi lên Covey báo rơ t́nh h́nh và xin triệt xuất v́ Toán đă bị lộ .
Tạm nghỉ mệt ngồi chờ quyết định. Hào đang mân mê cây AK và lắc lắc tay ra dấu vô ích, súng hết đạn rồi.Trong máy có tiếng gọi Toán và Đại úy Storter thông báo, yêu cầu đă được chấp thuận và xin cửa sổ nhà tôi.
Móc trong túi áo ngực lấy cái gương,chiếu thẳng lên Covey.
-Whisky yankee. Đi về hướng đông 200 mét, có băi đáp.
Thông báo cho Thiếu úy điệp. Toán vội vă di chuyến, tẽ ngang hướng đông, được chừng 100 mét. Phía trước cây rừng thưa, từng bụi rậm rải rác chen lấn nhau. Điệp ra dấu ngồi xuống, quan sát địa thế. Toán đang đứng trên ngọn đồi. xa xa một khoảng trống băi cỏ vàng, nhởn nhơ dưới ánh nắng vàng quá trưa. Thót người v́ tiếng hú ngay sau lưng, kèm theo tiếng người.
Rất nhanh, Toán đều t́m được mỗi người một gốc cây và sẵn sàng. Tôi gọi ngay cho Covey báo đụng địch và xin trợ giúp... Tiếng chân người xen lẫn những cánh tay vẹt cây rửng, từ từ đến thẳng chúng tôi...
Sự căng thẳng, hồi hộp trên từng nét mặt, gần tôi, Hào đưa tay vuốt mồ hôi trên mặt. Tôi, tim như ngừng đập theo từng tiếng bước chân của địch. Châu và Điệp tay đang mở bao bi đông nước trong có chứa khoảng hai mươi trái lựu đạn mini...
Loạt đạn đầu tiên của Trung sĩ Quang đă làm hai tên địch đi đầu vật ngửa, mà chẳng kịp nh́n thấy ai...Tiếng hô hoán, ra lệnh bỗng chốc ầm ĩ sau loạt đan của Quang. Tiếp đó,cái không khí nặng nề lại đè lên hiện trường, kèm theo mùi thuốc súng cộng lá cây rừng.
Bên này đồi ,nghe thấy tiếng quát thúc dục. Toán chúng tôi đang bị bao vây bằng hai cánh quân. Địch đă đến gần và trực diện với chúng tôi bằng những loạt đạn phủ đầu áp đảo. Nép vào gốc cây, nh́n nhũng vết đạn cày sước, đất bắn tung tóe. Tôi gọi Covey trong lúc bốn đồng đội tác chiến.
-Hotel bravo. Anh có mang theo đồ chơi không, bật khói vàng cho anh chơi nhá.
-Whisky yankee, rất tiếc tôi không trang bị đồ chơi.Hăy cố gắng...Con hổ mang đang trên đường đến... Chạy ra băi đáp sau lưng.
Bằng vào hỏa lực của ḿnh.Toán cầm cự nhờ vào địa thế thuận lợi trên cao. Chúng tôi chơi lựu đạn dễ dàng và chính xác.
Quang ḅ ra sau chúng tôi lo gài trái claymore để mở đường máu, tay đang sởi cuộn dây điện bấm ḿn... Bất thần tiếng hô :
- " Muốn sống đầu hàng đi, chúng mày bị vây chặt rồi !"
Chúng tôi đáp trả lại bọn giặc cướp xâm lược láo xược bằng một băng đạn vào chỗ tiếng lải nhải. Nóng nẩy và điên tiết tôi gào lên "chửi thề". Bên dưới Quang đă gài ḿn xong ra hiệu cho Toán rút xuống từng người. Đ̣n cân năo và những loạt đạn qua lại chứng tỏ địch khôngđông...
Giờ này địch đă chiếm được vị trí cao mà chúng tôi mới bỏ lại. Bên gốc cây to, bạnh. Điệp chỉ chiếc balo rách, đạn cày phá tung bên hông, nước trong bi đông giờ c̣n nhỏ giọt. Trên kia bốn cái xác địch nằm dài xuôi tay quanh những tay súng lâu lâu xuất hiện bắn xối xả vào chúng tôi. Địch đang chờ tiếp viện để làm cỏ Toán tôi.
Tiếng súng xối xả của cả hai bên đánh bật đi tiếng Covey, mà có để ư mới nghe thấy. Tôi vẫn bấm mở máy điện đàm để Covey có thể theo dơi t́nh h́nh và thưởng thức diễn tiến trận đánh bằng âm thanh.
Có tiếng thét thúc dục của cấp chỉ huy địch. Những lằn đạn cày sới, hất tung đất cát lên cao và lả tả vỏ cây văng văi trên đấu và vai. Cây M79 của Hào tỏ ra thật hữu hiệu, áp đảo trận địa. Hào chứng tỏ sự nhanh nhẹn , thông minh, chính xác trong tác chiến. Cây M79 của hắn thật tuyệt vời đă làm khựng lại cuộc tấn công, v́ sau tiếng nổ của những trái M79.
Phía địch gần như phải lo chống đỡ hoặc ẩn núp. Nhuần nhuyễn trong bài bản chiến thuật, lúc này mới thấy được tính hữu dụng của những giờ khó nhọc thực tập. Chiếc Covey xà xuống thật thấp, bay theo kiểu khủng bố với tiếng động cơ hết cốt. Xẹt,ào ào trên trận địa. Đèn xanh đă được bật , trong chiến thuật quen thuộc.
Tôi báo cáo cho Điệp, hiểu Điệp ra lệnh chơi lựu đạn... Bất chấp Toán đồng loạt đứng lên. Mỗi người tay lựu đạn lấy hết sức ném về phía đối phương. Trung sĩ Quang nổ trái claymore. Toán chúng tôi hè nhau, vắt gị lên cổ, chạy thục mạng, nhắm hướng đông có băi đáp.
Dưới sự che khuất bởi khói và đất cát mịt mù của lựu đạn và ḿn nổ. Cố hết sức, kết cục cũng ra được tới b́a rừng và thấy rơ những chấm đen của trực thăng đang lao tới. Thoải mái và phần nào lạc quan. Nét hân hoan hiện lên tửng khuôn mặt chờ đợi trực thăng bốc về.
-Whisky yankee. Con trai, mở cửa đi!
Thiếu Úy Điệp ra khỏi tàn cây rồi lắc gương.
-Whisky yankee. Thấy rồi. tiến ra khoảng trống, một trưc thăng sẽ bốc hết Toán.
Tiếng trực thăng chém gió đang quần ngự trên đầu. Hai chiếc Cobra, ṿng chờ đợi sự điều khiển của Covey. Trên cao bốn chiếc Kingbee vẫn chưa chịu hạ thấp.
-Whisky yankee, ra ngay băi đáp và chuẩn bị panel vàng. Hải, coi chừng phía b́a rừng.
Toán chạy thẳng ra băi trống, phất panel vàng theo mật lệnh, trong lúc loạt rocket đầu tiên bốn, năm trái đươc phóng xuống nổ tung dài theo b́a rừng... Xa luân chiến...
Tiếp theo sau, Cobra thứ hai, bay đầu chúc chúc... Tiếng đại liên mini, cùng 40ly tự động nghe phần phật, rồi nổ văng văi dưới đất. Hai chiếc Cobra đảo ṿng hai cũng là lúc chiếc Kingbee đang xuống băi đáp. Phía sau hỏa lực của Cobra lập thành hàng rào thép cho Kingbee.
Chiếc Cobra thứ hai lù lù phía sau...
Nằm vội xuống đất, trong khi từ b́a rừng, cách Toán khoảng 50 mét, tiếng súng thi nhau nổ...
À,mày chơi cú chót... Tôi thấy rơ chiếc Kingbee xẹt ngang qua đầu. Cây đại liên M60 phun ra lửa. Người xạ thủ đứng hẳn lên, văi đạn như mưa xuống b́a rừng. Nhưng chiếc trực thăng bỗng bốc lên cao.
Hỏa lực của Cobra chơi bằng đủ mọi đồ chơi hiện có.
Toán chúng tôi nằm chết dí tại băi đáp. Địch đang nỗ lực chơi máy bay, tạm tha cho chúng tôi. Vẫn xa luân chiến, hai Cobra thi nhau tận dụng mọi hỏa lực và đang áp tải chiếc Kingbee xuống băi.
Người xạ thủ trên Kingbee nổ tới tấp vào b́a rừng, trong khi hỏa lực từ Cobra cày tung tóe đất cát. Một địa ngục lửa thép ...
Nhưng, rơ ràng là một thằng điên đứng chạy với cây thượng liên nồi xối xả bắn vào trực thăng. Lạ lùng cây M60 trên trưc thăng không làm hắn ngă được.
Kingbee đáp hẳn xuống băi. Hai Cobra vẫn bân bịu ở b́a rừng. Nhưng không thể ngăn được chừng cả mấy chục tên địch đứng chạy bắn đuổi theo chiếc Kingbee. Trên trực thăng, tôi dơ cao khẩu AK chiến lợi phẩm dí dí thẳng vào mặt đối phương.
Toán về đến CCC (Snowden Hall) . Trời vừa ập tối. Nhân viên pḥng Hành-quân ra đón, tay bắt mặt mừng.
Chiếc Kingbee đang được soi đèn đếm vết đạn.
Ông Thiếu Tá người Mỹ dơ cao cây AK tôi mới trao, miệng cười ha hả. Trên sân lúc này chỉ c̣n ba chiếc Kingbee, hỏi ra, một chiếc bận đưa người xạ thủ bị thương lên tận Pleiku để chữa trị.
(Sài G̣n trong tôi/ Toán Hải Sơn CCN (Command Control North)
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Những Video hay hiện nay N2 Best Videos around the world today
Nearly 10 Years Ago, Donald Trump started using God Bless The USA as his walk out song at every rally and event. Little did I know 40 years ago that my song would play a key part of such a historic presidential campaign. To President Trump and the millions of supporters, Thank… pic.twitter.com/GqhwixVsFz
In Kamala Harris's final speech of her presidential campaign, she publicly conceded defeat to President-elect Donald Trump on Wednesday in a defiant and impassioned speech at Howard University, her alma mater. https://t.co/OkgE7Oxpblpic.twitter.com/bnlvEvwT6j
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.