Nguyễn Đ́nh Đầu (12 tháng 3 năm 1920 - 20 tháng 9 năm 2024) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực địa lư, lịch sử Việt Nam. Ông được biết nhiều với các công tŕnh nghiên cứu về lănh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ và được giới nghiên cứu đánh giá là một nhà khoa học nghiêm túc, tận tụy và có nhiều cống hiến quan trọng cho khoa học Việt Nam.
Ông sinh ngày 12 tháng 3 năm 1920 (giấy tờ ghi là 1923) tại nhà số 57 phố Hàng Giấy, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đ́nh Công giáo nghèo, thuở nhỏ, ông theo giúp mẹ kiếm sống và học tại trường tiểu học Pháp-Việt ở cuối phố Huế (Hà Nội). Sau khi học xong bậc Trung học, năm 1939, ông theo học trường Bách nghệ Hà Nội và tốt nghiệp tại đây vào năm 1941. Trong khoảng thời gian ấy, ngoài việc học, ông c̣n gia nhập Hội Hướng đạo, Hội Truyền bá quốc ngữ, Phong trào Thanh Lao Công (tức "Phong trào Thanh niên Lao động Công giáo", Jeunnesse Ouvrière Chrétienne - JOC) và trở thành thành viên tích cực của những tổ chức này.
Ông được ông Nguyễn Mạnh Hà bảo lănh sang Pháp học tại Đại học Công giáo Paris (Institut Catholique de Paris). Ông tốt nghiệp Cử nhân ngành Khoa học-Xă hội tại đây năm 1953.
Năm 1955, ông về nước và sống tại Sài G̣n. Thời gian đầu, ông dạy học ở các trường tư thục Công giáo để kiếm sống. Ông từng là giáo sư sử địa, vừa là giám học của Trường Trung học Nguyễn Bá Ṭng (nay là trường Phổ thông Trung học Bùi Thị Xuân, Thành phố Hồ Chí Minh) từ 1957 đến 1959. Ông cũng tham gia soạn sách giáo khoa Sử Địa từ đệ thất đến đệ nhị chuyên khoa (tương đương từ lớp 6 đến lớp 11 hiện nay).
Từng năm 1960, ông chuyên tâm nhiều vào việc nghiên cứu và công bố các công tŕnh của ḿnh trên các báo tại miền Nam. Ông bắt đầu được biết đến như một học giả đứng đắn và rất có uy tín trong giới nghiên cứu. Bên cạnh đó, tính cách ôn ḥa và đấu tranh cho ḥa b́nh và ḥa giải dân tộc, ông được xem như là một trong những thành viên tích cực của "Lực lượng thứ ba" trong chính trường miền Nam kể từ sau Hiệp định Paris 1973. Chính v́ vậy, ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông được tướng Dương Văn Minh cử làm thành viên của phái đoàn đại diện Việt Nam Cộng ḥa đến Trại Davis để đưa đề nghị ngưng chiến.
Ông mất ngày 20 tháng 9 năm 2024 tại Viện Tim Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 104 tuổi.
*****
Tôi chỉ gặp ông Nguyễn Đ́nh Đầu một lần, khi gọi điện thoại từ số bàn, người nhà của ông nghe máy, rồi ông bảo qua nhà đi, ông sẽ trả lời câu hỏi.
Điều khiến tôi đến gặp ông chỉ là để hỏi một câu đơn giản về Vườn Tao Đàn và sự tồn tại từ trước kia của nó. Từ cửa sổ pḥng ông nh́n ra sẽ thấy những hàng cây xanh nối dài đến Tao Đàn. Ông giải thích cho tôi nơi ấy từng là vườn ươm với tên gọi khác.
Người Pháp cần biết trồng loại cây ǵ sẽ ổn với đô thị mà họ đang xây dựng. Cây ǵ có thể cho tàng mát vào mùa nắng, cây ǵ không phải quét lá quá nhiều v́ lá rụng, cây ǵ có thân đặc không găy ngang nếu mưa gió, và nhiều yếu tố khác. Đó là lư do vườn có nhiều loại cây lạ và đặc biệt, là để thể nghiệm với thổ nhưỡng địa phương của đô thị này.
Tôi chỉ hỏi có vậy, và cuộc tṛ chuyện hôm ấy sau đó kéo qua những thứ khác không liên quan đến bài viết tôi được giao, những thứ linh tinh về những biển hiệu như CE, về cái tên, ḍng kênh, tường thành cũ, thứ tôi chẳng biết hỏi ai.
Đó là sự ṭ ṃ của một đứa thanh niên 21 tuổi với một ông già đă dành cả đời nghiên cứu đời sống và lịch sử tạo nên nơi này. Ông kiên nhẫn trả lời, nói chầm chậm, chỗ nào ông bảo không nhớ ông run run cầm bút viết lại để kiểm tra sau.
Khi tôi ra về, ông cho tôi hai tờ giấy photocopy, là 2 bài báo lấy từ kho tài liệu cũ của ông, bảo nếu cần dùng làm ǵ th́ lấy từ đó mà xem. Mấy hôm sau, tôi thấy số điện thoại ông gọi, ông bảo có một chi tiết ông nhớ sai, sau đó đọc lại cho tôi sửa.
Sau này, tôi chỉ "gặp" ông trong những lần đi nghe giới thiệu sách, thỉnh thoảng ông có mặt trả lời độc giả. Tay ông hơi run, nói chậm, nhưng mọi thứ thật rơ ràng, luôn đi kèm với chú dẫn là ông đọc từ đâu, lấy từ đâu.
Có thể ông không biết cuộc gặp chưa đến một tiếng đó đă cho tôi niềm yêu mới mẻ về thành phố. Khi ấy tôi mới lên Sài G̣n, tôi không nghĩ một nhà sử học nổi tiếng lại chịu bỏ cả tiếng đồng hồ giải thích cho một đứa nhóc vô danh những thứ lẽ ra phải ngồi học để biết. Ông kể về điều cũ bằng t́nh yêu dịu dàng và chân thật với đô thị nơi ông sống.
Ông là một trong những phẩm giá đă tạo ra Sài G̣n mà tôi được lớn lên trong đó nhiều năm sau đó. Tôi sẽ gặp thêm những người viết, những nhà nghiên cứu, những học giả. Đôi khi họ thậm chí không nhớ tên tôi, nhưng lại bỏ công mang sách vở bài giảng tới ngồi chỉ dẫn tôi mấy tiếng đồng hồ, giúp tôi hiểu ra một điều, hay giúp tôi lớn thêm một chút nhờ sự học, hay photo mấy bài báo tài liệu chỉ dẫn tôi như ông đă làm.
Mỗi khi người ta nói về sự hào sảng của Sài G̣n, thường sẽ nhắc đến bánh ḿ miễn phí, cơm 2.000, trà đá mùa hạ. C̣n tôi, nhớ đến những cuộc gặp vô tư, sự hào phóng chia sẻ tri thức vô điều kiện, những ao ước lan toả sự ṭ ṃ và thương mến với thành phố. Những người thầy đă giúp tôi lớn.
Sự khuyến học vô điều kiện của những người như ông, những người làm thầy, đă giúp tôi chịu học về điều cũ, điều mới, điều đă chết, điều c̣n sống. Thế giới sống của chúng ta đi trên vết chân của điều đă tàn phai. Ta làm sao có thể sống bằng quên lăng và chối từ?
Mỗi khi đi qua Tao Đàn, tôi lại nhớ cuộc chuyện tṛ năm đó: Đây là vườn ươm, để biết khí hậu, thổ nhưỡng, để xem cây ǵ nên trồng hàng loạt trong đô thị. Tôi nhớ về ông, điện thoại bàn, bài báo photo, bàn tay run chép lại chi tiết cần kiểm tra.
Cảm ơn ông, nhà sử học Nguyễn Đ́nh Đầu. Cảm ơn v́ sự hào sảng của ông với đô thị này.
Phạm Lan Phương