TÍNH NHÂN BẢN TRONG CÁC BÀI HỌC QUỐC VĂN BẬC TIỂU HỌC CỦA NỀN GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM TRƯỚC 1975
TÍNH NHÂN BẢN TRONG CÁC BÀI HỌC QUỐC VĂN BẬC TIỂU HỌC CỦA NỀN GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM TRƯỚC 1975
Muc đích của bài viết nầy nêu lên những nét nhân bản của chương tŕnh môn quốc văn bậc tiểu học của nền giáo dục Việt Nam Cộng ḥa trước 1975.
Rất tiếc, sau biến cố 30 tháng 4, năm 1975, nhà cầm quyền ra lịnh tiêu hủy các loại sách của Miền Nam kể cả sách giáo khoa môn quốc văn các cấp. Do đó, việc sưu tập các sách quốc văn cũ rất khó khăn.
Tài liệu sử dụng trong bài nầy gồm :
Bộ quốc văn giáo khoa thư, Luân lư giáo khoa thư do các nhà xuất bản nước ngoài tái bản, và một số bài trong các sách quốc văn bậc tiểu học được giảng dạy tại các trường miền Nam được vài nhà sưu tầm đưa lên trang mạng “internet”(không ghi ngày tháng), thêm vào đó một số bài do trí nhớ hạn chế của người viết, nên chắc chắn những điều tŕnh bày c̣n thiếu sót.
I. Dẫn nhập
Mục đích của giáo dục không phải chỉ truyền thụ những kiến thức, mà là đào tạo con người toàn diện, không thể tách rời kiến thức và đạo đức.
Đạo đức làm người phải được đề cao như :
Đức hiếu thảo, yêu thương gia đ́nh, ông bà cha mẹ, yêu thương họ hàng thân tộc, có lương tâm trong mọi sinh hoạt, có trách nhiệm với tha nhân, góp phần bảo vệ cuộc sống cho xă hội.
Muốn đạt được mục đích nầy, không thể không quan tâm đến vai tṛ của sách giáo khoa.
Khi đề cập đến vai tṛ của sách giáo khoa bậc tiểu học, nhiều nhà giáo dục luôn nhắc đến bộ sách Quốc văn giáo khoa thư của quí ông Trần trọng Kim, Đổ Thận, Nguyễn văn Ngọc và Đặng đ́nh Phúc, xuất bản từ những năm 1930 – 1940, là một trong những cuốn sách giáo khoa Việt ngữ được dạy ở các trường tiểu học Việt Nam trong suốt những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ 20.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, nước Việt Nam tạm thời chia đôi ở vĩ tuyến 17, thành hai miền Nam, Bắc.
Miền Bắc xây dựng một nền giáo dục theo chủ thuyết Mac-Lênin , hướng mục tiêu đến Chủ nghĩa xă hội .
Trong khi đó, tại Miền Nam theo chính thể tự do.
Các nhà giáo dục Miền Nam tỏ ra rất thận trọng. Họ chủ trương cải tổ từ từ, chọn lọc để thích ứng với hoàn cảnh mới.
Những ǵ người Pháp thiết lập không bị hủy bỏ ngay. Hệ thống giáo dục Pháp từ cấp tiểu học đến đại học được từ từ Việt hóa.
Chương tŕnh giáo dục Việt Nam cũ ban hành năm 1945, dưới thời chính phủ Trần trọng Kim, được gọi là chương tŕnh Hoàng Xuân Hăn vẫn c̣n áp dụng cho đến giữa thập niên 1950. Dưới thời Đệ nhứt Cộng Ḥa, chương tŕnh Việt mới bắt đầu thay thế chương tŕnh Pháp.
Nhờ quyết định đúng đắn và thận trọng của những nhà giáo dục miền Nam mà sự chuyển sang một nền giáo dục mới không bị trục trặc.
Một lớp học cấp tiểu học của Việt Nam Cộng Ḥa trước 1975
Riêng chương tŕnh môn Quốc văn bậc tiểu học, dựa theo nội dung các bài học về đạo đức trong bộ sách Quốc văn giáo khoa thư và Luân lư giáo khoa thư làm cơ sở rồi soạn một chương trỉnh phù hợp với hoàn cảnh mới, nhằm rèn luyện cho thế hệ tương lai cả đức lẫn tài để chuẩn bị trở thành những con người hữu dụng đối với bản thân, gia đ́nh và xă hội.
Theo chủ trương, một chương tŕnh, nhiều sách giáo khoa
Chỉ cần theo chương tŕnh và hướng dẫn của Bộ Giáo dục, các soạn giả sách giáo khoa được tự do chọn bài, trích dẫn từ những tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng hoặc có thể tự ḿnh sáng tác những bài thơ, bài văn theo chủ đề giảng dạy để đưa vào sách, và giáo viên cũng có quyền chọn quyển sách giáo khoa để giảng dạy. Nhờ vậy, các soạn giả cố gắng để soạn ra những sách giáo khoa có giá trị.(1)
1.- Trần Văn Chánh (2012) Những bài học thuộc ḷng một thuở. Tạp chí Tia Sáng-Tạp chí Nghiên Cứu và Phát Triển, số 6 (… http://tiasang.com.vn/. ). Sau nầy ghi là Trần Văn Chánh
Thông thường, ở trang b́a của quyển sách, soạn giả ghi :
“ Soạn theo chương tŕnh hiện hành của Bộ Quốc gia Giáo dục ”…
Có thể kể một số tên sách như :
- 100 bài tập đọc Lớp Nhứt và Lớp Nh́ (Một Nhóm Giáo Viên. NXB: Việt Hương)
- Nhị thập tứ hiếu (Lư văn Phức.NXB: B́nh dân thư quán)
- Quốc văn Lớp Nh́, Quốc văn Lớp Nhứt (Một nhóm Giáo viên. NXB: Việt Hương)
- Quốc văn toàn thư, Lớp Ba (Phạm trường Xuân & Yên Hà –Kinh Dương & Một Nhóm giáo viên.NXB : Việt Hương Việt ngữ tân thư, Lớp Nhất, Việt Ngữ Tân Thư, Lớp Nh́ (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Sống Mới)
- Việt văn Tân thư, Lớp Nh́ (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Sống Mới)
- Việt văn Toàn thư (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Nhật Tảo)
- Tân Việt Văn, Lớp Bốn (Bùi văn Bảo. NXB: Sống Mới)
- Quốc văn Toàn Tập, Lớp Nhất (Bùi văn Bảo, Đoàn Xuyên. NXB: Sống Mới)
- Giảng văn, Lớp Đệ Thất (Đỗ văn Tú, NXB: Việt Nam Tu Thư) Tiểu Học Nguyệt san (NXB: Nha Học Chánh Bắc Việt) (2)
Ngoài những sách giáo khoa, giáo viên có thể sử dụng những tác phẩm của những nhà văn có uy tín để bổ sung cho bài học trong lớp, như cuốn :
- Tâm Hồn Cao Thượng (nguyên tác Grand coeurs của Edmond de Amicis. Dịch giả: Hà Mai Anh, 1952. NXB: Mai Đ́nh)
Thơ ngụ ngôn (Les Fabres de la Fontaine, Dich già: Nguyễn văn Vĩnh)…
Trong phạm vi bài viết ngắn, xin trích dẫn một số bài học về bổn phận đối với xă hội trong các sách “Quốc văn Giáo khoa Thư”, “Tâm Hồn Cao thượng” và một số sách giáo khoa của tác giả khác.
Những bài học nói lên tinh thần nhân bản của nền giáo dục miền Nam trước năm 1975. Bài viết gồm:
* Khái niệm về nhân bản và triết lư nhân bản của nền giáo dục Miền Nam trước năm 1975.
* Nội dung các bài học mang tính nhân bản trong sách quốc văn bậc tiểu học.
II. KHÁI NIỆM VỀ NHÂN BẢN VÀ TRIẾT LƯ CỦA NỀN GIÁO DỤC MIỀN NAM TRƯỚC 1975
Từ năm 1959, nền giáo dục Miền Nam (Việt Nam Cộng Ḥa) đă lấy nguyên tắc căn bản:
Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng làm triết lư giáo dục, và được ghi lại trong hiến pháp 1967.
Ba nguyên tắc căn bản: Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng là mục đích và tôn chỉ của nền giáo dục Miền Nam.
Chính những nguyên tắc nầy đă giữ cho truyền thống dân tộc được bảo tồn và phát triển vững vàng, nhưng không bảo thủ, và từng bước theo kịp đà tiến triển của nhân loại.
Nền giáo dục nhân bản lấy con người làm gốc, tôn trọng giá trị của con người, đề cao giá trị siêu việt của con người.
Con người khác hơn các sinh vật khác, con người có suy tư, có sáng tạo và làm cho đời sống càng ngày càng nâng cao.
Con người cần được no cơm ấm áo, tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng.
Trong xă hội có những cá nhân khác biệt, nhưng không thể đánh giá con người qua sự khác biệt đó để kỳ thị giàu nghèo, giới tính, tôn giáo, địa phương, chủng tộc…
Mọi người đều được hưởng đồng đều về giáo dục (3).
3.- Nguyễn Thanh Liêm (2006). Giáo dục ở Nam Việt Nam. Từ đầu thập niên1970 đến 1975. Giáo dục ở miền Nam tự do trước 1975. Lê Văn Duyệt Foundation, CA (USA), trang 22-26.
Đường hướng của nền giáo dục nhân bản là rèn luyện con người có nhân cách, có thái độ sống phù hợp với nguyên tắc đạo lư mà mọi người thừa nhận.
Do đó, một con người có nhân cách sẽ có ḷng yêu thương :
- Yêu gia đ́nh, yêu đồng bào đồng loại và yêu quê hương đất nước.
Nói cách khác, giáo dục không phải chỉ dạy kỷ năng nghề nghiệp hay kiến thức mà phải dạy làm người.
III. NỘI DUNG CÁC BÀI HỌC MANG TÍNH NHÂN BẢN TRONG SÁCH QUỐC VĂN BẬC TIỂU HỌC
Nội dung, tư tưởng trong các sách giáo khoa tác động đến h́nh thành và phát triển nhân cách của trẻ thơ, nó in sâu vào tâm năo trẻ thơ ngay trong giai đọan đầu cắp sách đến trường cho đến lúc trưởng thành.
Các sách giáo khoa bậc tiểu học của Miền Nam (Việt Nam Cộng Ḥa) trước 1975 chú trọng những vấn đề luân lư đạo đức truyền thống, vẫn hàm chứa nội dung đạo đức trong các sách giáo khoa cũ của thế hệ 1940.
Sau đây là một số bài tiêu biểu về t́nh thương yêu đồng bào, đồng loại, ḷng biết ơn đối với mọi người trong xă hội, t́nh yêu quê hương đất nước và t́nh yêu nhân loại.
1. T̀NH YÊU THƯƠNG ĐỒNG BÀO , ĐỒNG LOẠI
Từ buổi đầu dựng nước và giữ nước, người dân Việt Nam đă trải qua biết bao gian nan thử thách.
Tổ tiên chúng ta đă đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn phức tạp, vừa khắc phục mọi trở lực khắc nghiệt của thiên nhiên để mở mang bờ cỏi giang san, vừa phải chiến đấu giữ nước, chống kẻ thù mọi phía, đặc biệt là thế lực hùng mạnh phương bắc.
Để tồn tại và phát triển, tổ tiên chúng ta đă ư thức cần phải đoàn kết thật sự, cần phải nương tựa vào nhau và thương yêu nhau như những người con cùng một mẹ.
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên ḥn núi cao”
Tinh thần đoàn kết nầy tạo thành truyền thống lưu lại cho con cháu mai sau.
Theo truyền thống của người Việt Nam, t́nh thương yêu không chỉ dành cho trong gia đ́nh, mà mở rộng đến cả đồng bào và đồng loại. Một giá trị tốt đẹp của con người là ḷng nhân đạo.
Muốn sống cho đúng nghĩa, con người phải biết thương yêu lẫn nhau.
Khi thấy người hoạn nạn, đau yếu phải giúp đỡ bằng t́nh thương yêu chân thành. Quốc văn giáo khoa thư mượn bài thơ trong gia huấn ca để dạy học sinh:
Thấy người hoạn nạn th́ thương,
Thấy người tàn tật lại càng trông nom,
Thấy người già yếu ốm ṃn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa
Nguyễn Trăi (Gia huấn ca)
Có nhiều câu ca dao tục ngữ ẩn chứa triết lư tỉnh thương được giảng dạy trong nhà trường, đă in sâu trong tâm khảm người Việt Nam :
“Lá rành đùm lá rách”
“Thương người như thể thương thân”
“Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng” (4)
4.- (Nguyển Văn Bon (2009). Tiếp chuyển những nét đặc sắc trong văn hóa Việt Nam sang thế hệ trẻ tại hải ngoại. Tập san 3, Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long
Người trong một nước phải thương yêu nhau như con một nhà.
Bài học về “Cậu bé miền Nam” trong quyển Tâm hồn cao thượng đă dạy học sinh về ḷng thương yêu, không phân biệt Bắc Nam.
Một cậu bé miền Nam lên miền Bắc theo học. Được thầy giáo giới thiệu với các học sinh trong lớp, và được các học sinh nhiệt t́nh chào đón.
Thầy giáo nói với cả lớp:
“….Cho được các kết quả nói trên, nghĩa là làm cho đứa bé xứ Nam ra ở xứ Bắc cũng như ở nhà ḿnh, và đứa bé ở xứ Bắc vào xứ Nam cũng tựa như về quê ḿnh, nước ta phải chiến đấu trong 50 năm trời và đă hy sinh trên ba vạn người Ư mới khôi phục được quyền tự do ấy.
Vậy các con phải coi nhau như con một nhà, yêu nhau như anh em ruột thịt. Kẻ nào thấy người bạn mới không phải là người xứ ḿnh mà đem ḷng khinh rẻ, kẻ ấy không xứng đáng ngẩng mặt nh́n ngọn quốc kỳ đi qua…” (5)
5.- Hà Mai Anh: Cậu Bé miền Nam, Tâm Hồn Cao thượng. Nhà xuất bản: Mai Đ́nh, trang 13. Sau nầy ghi là Hà Mai Anh.
Các bài học về t́nh thương yêu đồng bào, đồng loại đă nhắc nhở học sinh phải tôn trọng mạng sống của con người, có ḷng nhân ái, biết trọng của người và không vọng ngữ.
Đây là thước đo tiêu chuẩn đạo đức, nhân cách của con người .
C̣n tiếp ,
The Following 3 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Mạng sống của các sinh vật rất quí . Mạng sống của con người có giá trị tối cao. Nếu mỗi cá nhân biết quí mạng sống của ḿnh, th́ không thể xem thường mạng sống của kẻ khác.
Một dân tộc được coi là văn minh là một dân tộc biết đề cao giá trị nhân phẩm của con người.
Một người có ḷng lương thiện không bao giờ sát hại đến sinh mạng của đồng loại và sinh mạng của cả sinh vật khác.
Chỉ có con người dă man mới coi thường mạng sống của con người.
Không sát sinh là cách chận đứng ḷng tham dẫm lên sinh mạng con người và sinh vật để mưu cầu tư lợi cho bản thân ḿnh. Không sát sanh c̣n là nuôi dưỡng ḷng trắc ẩn, từ bi đối với muôn loài.
“Trọng cái tính mệnh của người ta, là đừng làm điều ǵ phạm đến thân thể và quyền tự do của người ta.
Người ta ở đời, không có ǵ trọng hơn cái tính mệnh, hễ phạm đến, là một tội đại ác.
Không những là giết người mới có tội, cậy quyền cậy thế mà hà hiếp người ta, làm mất cái quyền tự do của người ta, cũng là một điều trái với lẽ công b́nh, người có lương tâm không ai làm” (6)
6.- Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đ́nh Phúc, Đổ Thận…Trọng cái tính mệnh của người ta. Luân lư giao khoa thư. Lớp Sơ Đẳng. Nhà xuất bản: Nha Học Chánh Đông Pháp, 1941, in lần thứ ba. Nhà xuất bản: Quê Mẹ, Paris in lại (không ghi năm), trang 53. Sau nầy ghi Quốc Văn Giáo Khoa Tư. Luân Lư-Sơ Đẳng
1.2. L̉NG NHÂN ÁI
Không phạm đến tính mệnh, của cải, danh giá, sự tự do và sự tín ngưỡng của người.Nhưng đó chỉ là giữ không làm điều ác mà thôi. Như thế vẫn chưa đủ bổn phận làm người. Phải có ḷng nhân ái.
Nhân ái là ḷng từ thiện, thương người đói khát, giúp người hoạn nạn. Có ḷng nhân ái, th́ mới làm những việc như bố thí, cứu giúp kẻ nghèo khổ, mới biết thân yêu mọi người và quên ḿnh mà làm điều thiện.
Người có ḷng nhân ái dám hy sinh cứu người trong lúc nguy nan như người thầy thuốc không sợ lây khi chữa những bịnh truyền nhiễm; người lính liều sống chết ở chỗ chiến trường để giữ lấy nước nhà. Họ v́ ḷng nhân ái mà ra sức làm nghĩa vụ.
“Bổn phận người ta đối với xă hội, thường chia làm hai mối là :
- Công b́nh và nhân ái.
“ Không hại người ” tức là công b́nh, “ làm hay cho người ” tức là nhân ái.
Câu “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” trong sách luận ngữ, tức là công b́nh. C̣n nhân ái th́ ta có thể nói được rằng :
"kỷ sở dục giả, khả thi ư nhân”
Người ta mà không công b́nh, chẳng những có tội đối với lương tâm, mà luật pháp lại c̣n trừng trị nữa. Giết người th́ phải thế mạng; trộm cắp th́ phải ngồi tù, xưa nay ở đâu cũng vậy.
Con người mà không có ḷng nhân ái, th́ tuy đối với luật pháp không có tội lỗi, nhưng đối với lương tâm, th́ là không phải. Gặp người đói khó, mà ḿnh không giúp người ta, cũng không ai bắt được ḿnh, nhưng trong bụng không đành. (7).
7.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng. Công b́nh và nhân ái, trang 51
Người có ḷng nhân ái th́ không những là chỉ thương xót đồng loại mà thôi, lại c̣n thương xót đến cả loài vật nữa.
“….Những loài vật đă giúp việc cho ta mà ta phải thương xót, là cái nghĩa vụ của ta. Nhưng đối với loài cầm thú khác, ta cũng nên có ḷng nhân ái mới phải đạo làm người. Cầm thú tuy là giống không biết thiện ác và phải trái như người, nhưng nó cũng biết đau, biết khổ như ḿnh… (8).
8.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng.Ta nên thương loài vật, trang 71
V́ t́nh nghĩa đồng bào mà phát tâm bố thí, cứu giúp người đói khổ, hoạn nạn; chia xẻ miếng ăn, manh áo cho người khốn khổ. Sống đạm bạc, cứu giúp người đồng loại là hành đông của con người có ḷng nhân ái.
Người có ḷng nhân ái, không chỉ bố thí miếng cơm manh áo hay tiền bạc khi thấy người đói khổ, mà v́:
“Nghĩa đồng bào khiến ta thương yêu mọi người như là thương yêu anh em ruột. Bao giờ ta cũng sẵn ḷng giúp đỡ mọi người, để người ta làm tṛn cái nghĩa vụ ở đời.
Ta phải dạy bảo những người ngu dốt, khuyên người làm điều lành, răn người làm điều ác.
Ta nên che chở cho những người bị oan ức và bênh vực những người hèn yếu.
Ta phải ăn ở thế nào cho đứa con mồ côi có thể coi ta như cha, người quá phụ coi ta như ân nhân.
Ta làm mắt cho kẻ mù, làm chân cho kẻ què, làm tai cho kẻ điếc.Lúc nào cũng sẵn ḷng nhân từ mà giúp đỡ mọi người trong lúc nguy hiểm (9)
9.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng.Nghĩa đồng bào, trang 65
Khi thấy ai nghèo đói, khổ sở, ḿnh cho cơm ăn, áo mặc, hoặc cho tiền bạc để giúp đỡ người ta đỡ khổ trong một lúc. Nhưng việc bố thí nầy phải “… tự nhiên, không cầu kỳ, không khoe khoang, mà có phần thiệt tḥi cho ḿnh th́ mới quí. Không cứ cho ít hay cho nhiều, miễn là ḿnh có ḷng thành thực, biết thương xót kẻ nghèo khổ, th́ mới là phải cái nghĩa bố thí. (10)
10.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng Bố thí, trang 62
Ngoài việc bố thí, “người có ḷng nhân ái thường hay nghĩ đến việc thiện, như là thấy ai nghèo khổ th́ đỡ đần, t́m công việc cho người ta làm, hoặc cứu giúp những cô nhi, quả phụ cho người ta khỏi đói rét, vất vả. (11)
11.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng. Việc thiện, trang 64
Lời một bà mẹ nói với đứa con trong bài “Kẻ khó” (Tâm Hồn Cao Thượng) không chỉ làm rung động tâm hồn của trẻ thơ, mà ngay đối với người lớn tuổi cũng không khỏi bùi ngùi.
Con ơi ! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó th́ thiếu hết. Khi con mong sao được sung sướng th́ người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết.
Trong một khu có bao nhiêu nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn c̣n thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới ! Thực đáng buồn thay ! Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô t́nh th́ từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó mà không cho ǵ! (12)
2.- Hà Mai Anh : Kẻ khó, trang 43.
Bài thơ “Cách ăn ở” và “Những đứa trẻ mồ côi” là bài học luân lư về ḷng nhân đạo mà học tṛ bậc tiểu học được học nằm ḷng. Khi thấy người hoạn nạn, đau yếu phải giúp đỡ bằng t́nh thương yêu chân thành. (13)
13.- Trần văn Chánh (2012)
Cách ăn ở.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người cô quả cô đơn
Thương người đói rách lẩm than kêu đường.
Thấy ai đói rét th́ thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên
Nguyễn Trăi
(Gia huấn ca)
Những đứa trẻ mồ côi.
Có những con người đang thời hoa nở,
Sống trong niềm đau khổ: kiếp lầm than.
Cặp chân non ngày tháng những lang thang,
Trên đường phố ngút đầy bao gió bụi.
Tuổi niên thiếu dệt trong ngàn sầu tủi,
Không gia đ́nh, cha mẹ, khát t́nh yêu.
Ôi long đong, thân trẻ nhỏ sớm chiều,
Ngàn cực nhục cũng chỉ v́ cơm áo!
Tuổi niên thiếu lớn dần trong khổ năo,
Mặt trẻ trung đầy những nét đau thương.
Sống lầm than, dầu dăi nắng mưa sương,
Thân c̣m cơi không đủ đầy nhựa sống.
Những trẻ ấy dưới bầu trời cao rộng,
Đưa mắt nh́n thèm khát cảnh yên vui.
Có chăng ai, chỉ một phút ngậm ngùi,
Cho thân phận con người xấu số.
Xuân Chính
(Tiểu học nguyệt san, tháng 3/1959)
C̣n tiếp ,
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Người lương- thiện, có đạo đức là người biết trọng tài sản, của cải của người khác.
Tài sản là huyết mạch, liên hệ đến mạng sống của con người.
Hăy b́nh tâm suy nghĩ, chúng ta không muốn ai cướp đoạt tài sản của ḿnh, th́ không thể nào chúng ta lại đi chiếm đoạt tài sản, của cải của người khác.
Các hành vi bất lương dùng đủ mọi mưu mô, mánh khóe, lường gạt để chiếm đoạt đều là trộm cướp.
Người đươc coi là đạo đức, dĩ nhiên là không trộm cướp, không tán thành và không giúp đỡ những người có hành động trộm cướp.
Của cải của ai, là người ấy có quyền chi dụng và có quyền để lại cho con cháu. Ta không nên phạm đến của cải của người ta.
Không phải chỉ những đứa ăn trộm ăn cắp mới là người bất lương mà thôi.
Điên đảo giả dối để đánh lừa người ta, đi vay vỗ nợ, bắt được của rơi mà không trả, cũng là bất lương cả
Ta phải biết rằng cái ǵ đă là không phải của ḿnh th́ ta đừng đem ḷng tham mà chực lấy không, v́ rằng lấy không của người ta, là một sự rất trái với đạo công bằng: (14)
14.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư /Sơ Đẳng. Trọng của người, trang 71
1.4. Không vọng ngữ
Dùng lời lẽ, ngụy biện để làm sai lạc sự thật, nhầm đem lại lợi lộc cho ḿnh, làm hại người khác đều là nói dối, vọng ngữ.
Người đạo đức là người tôn trọng sự thật, không có tâm tham ác, không tán thành sự nói dối.
Chuyện không nói có, chuyện có nói không, dựa vào những nguồn tin vu vơ để kết tội người khác là vọng ngữ
.Trong gia đ́nh và trong xă hội mà con người thiếu ḷng tin với nhau th́ cuộc sống ấy vô cùng đau khổ.
Tuy nhiên cũng có những trường hơp v́ mục đích cứu người lương thiện, bất đắc dĩ phải nói lời không thật; đây là một ngoại lệ (một vị Bác sĩ phải dùng lời an ủi bịnh nhân).
Không nói dối bao gồm cả không nói lời ác khẩu, nói xấu, nói vu, chửi mắng, nhục mạ xúc phạm đến phẩm giá con người; không dùng lời trao chuốc, phù phiếm nhầm làm cho người khác có suy nghĩ sai lầm, đi đến hành động sai trái.
Sự nói xấu là cái tật cứ đi bới móc chuyện xấu của người ta mà nói. Người nói xấu là có ác ư hoặc để thỏa ḷng ghen ghét, hoặc để khoe cái hay và che cái dở của ḿnh. Người nói xấu là người hèn hạ đáng khinh, v́ chỉ nói những lúc vắng mặt người ta, để làm cho người ta mất danh giá.
Vậy không những ta không nên nói xấu ai, mà cũng không nên nghe chuyện người ta nói xấu nhau (15)
Nói vu là đặt chuyện ra mà vu cho ai để hại người ta, hay là làm cho người ta mất danh giá. Những người nói vu là người hèn mạt, bày đặt ra chuyện nọ tṛ kia để làm cho người ta mang tai mang tiếng, phải những điều oan ức, khó ḷng mà rửa sạch được.
Ta đi học, đă biết điều phải trái, th́ ta chớ hề nói vu cho ai bao giờ. Ta nên cho những điều ấy là điều hèn mạt, đáng khinh bỉ. (16)
16.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng Sự nói vu, trang 58
Ngoài ra, chúng ta nên nhớ rằng:
Của-cải của người ta, không phải chỉ nói riêng về tiền bạc, ruộng nương, nhà cửa, đồ đạc mà thôi, lại có một thứ của cải quí giá hơn nữa là cái danh giá ở đời.
Danh giá tức là danh thơm tiếng tốt của người biết tự trọng ḿnh, biết quí cái tư cách làm người, mà khinh bi những điều hèn mạt đê tiện.Của cải mất đi th́ c̣n làm ra được, chớ cái danh giá đă mất th́ khó ḷng mà lấy lại được.
Thánh nhân dạy rằng “Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác”, nghĩa là người quân tử làm thành tiếng hay cho người, chớ không làm thành tiếng xấu cho ai bao giờ.
Vậy bổn phận ḿnh trong xă hội là phải trọng cái danh giá của người ta, đừng có nói xấu ai, nói vu cho ai điều ǵ. (17)
17.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Luân lư/Sơ Đẳng. Trọng danh giá người, trang 55-56.
2. L̉NG BIẾT ƠN MỌI NGƯỜI TRONG XĂ HỘI
Mọi người sống trong xă hội đều có tương quan nhau. Do nương nhờ nhau mà cuộc sống của mỗi cá nhân mới an ổn. Trong gia đ́nh th́ cha mẹ, vợ con, anh em nương tựa nhau.
Ngoài xă hội, mọi người không thể sống lẻ loi. Tách rời mọi người ra, chúng ta không có cuộc sống an toàn.
Cho nên đối với mọi người, chúng ta phải biết ơn, không được làm tổn hại.
Câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn,” nói lên tinh thần biết ơn, là truyền thống đạo lư của con người Việt Nam.
Người làm ruộng có trồng trọt cấy cày, th́ ta mới có thóc gạo mà ăn. Thợ nề, thợ mộc có làm nhà, th́ ta mới có nhà mà ở. Thợ dệt có dệt vải, thợ may có may áo, th́ ta mới có đồ mặc vào ḿnh. Quyển sách ta học cũng phải có người làm, người in. Cái đường ta đi cũng phải có người sửa, người quét. Nói tóm lại, nhất thiết một chút ǵ ta cần dùng đến, cũng là có người chịu khó làm việc mới nên. (18)
18.- Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đ́nh Phúc, Đổ Thận (1935). Người ta phải làm việc. Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Lớp Dự Bị Nha Học Chính Đông Pháp. In lần thứ mười. Nhà xuất bản: Quê Mẹ Paris (Pháp), in lại năm 1983 trang 9. Sau nầy ghi Quốc Văn Giáo Khoa Thư/Lớp Dự Bị
Thật vậy, trong xă hội muốn sinh tồn th́ mọi người phải có bổn phận đem sức ḿnh giúp vào sự ích lợi chung.
Bài “Giấc mộng” dạy học sinh biết yêu mến và nhớ ơn mọi người.
Nằm mộng thấy nông phu lại bảo:
“Ra công làm kiếm gạo từ đây.
Tao thôi chẳng có nuôi mầy,
Phải lo trồng trọt cấy cày cho siêng.”
Người dệt cửi dặn mỉnh làm áo;
Chú thợ hồ lại bảo cầm bay!
Bơ vơ chẳng kẻ đoái hoài,
Tôi mang thơ thẩn đọa nầy cùng nơi.
Tôi túng thế vái trời cứu thử,
Lại thấy kia sư tử trên đàng!…
Tỉnh ra, thấy sáng, mơ màng!
Tiểu công hút gió, rộn ràng trên thang;
Nghe máy dệt rần rần tiếng chạy;
Ruộng đâu đâu cũng cấy đă xong.
Phận ḿnh nghĩ lại thong dong,
Mới hay dưới thế ai không nhờ người.
Từ ngày rơ cuộc đời đắp đồi,
Cám thương người xă hội như nhau.
Dập d́u kẻ trước người sau,
Sức riêng một ít giúp vào lợi chung.
Nguyễn ngọc Ẩn
(100 Bài Tập đọc, Lớp Nhứt và Lớp Nh́)
Bài học “Nên giúp đỡ lẫn nhau” cho thấy hinh ảnh hai cậu bé phụ đẩy xe giúp ông lăo, là bài học nhắc nhở học sinh về t́nh tương thân tương ái.
Trời nắng to. Đường th́ dốc. Một ông lăo đẩy chiếc xe lợn. Trên chiếc xe có có ba bốn con lợn to, chân trói, bụng phơi và mồm kêu eng-éc. Ông lăo cố đẩy cái xe, mặt đỏ bừng, mồ hôi chảy, mà xe vẫn không thấy chuyển.
Mấy cậu bé đang chơi trên bờ đê, thấy thế, vội chạy tới, xúm lại, buộc dây vào đầu xe mà kéo hộ.
Xe lên khỏi dốc, ông lăo cám ơn các cậu và các cậu cũng lấy làm vui ḷng, v́ đă giúp được việc cho người. (19)
19.- Quốc Văn Giáo Khoa Tư/Lớp Dự Bị, trang 27.
Trong quá tŕnh dựng nước và giữ nước, những bậc tiền nhân đă đổ biết bao nhiêu xương máu để vun bồi và tô điểm cho mảnh giang san gấm vóc. Họ là những vị anh hùng dân tộc.
Anh hùng, không phải chỉ có những người có chiến công hiển hách, có tài năng nổi bật làm những việc phi thường được ghi công trong sách sử, mà c̣n biết bao nhiêu người, đủ mọi tầng lớp, mọi giai cấp đă âm thầm cống hiến đời ḿnh cho quê hương dân tộc, không bao giờ được nhắc đến tên tuổi. Họ là:
Anh Hùng vô danh
1. Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.
2. Họ là kẻ tự ngh́n muôn thuở trước,
Đă phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu,
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dăy san hà gấm vóc…
3. Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi,
Trong loan ly như giữa lúc thanh b́nh,
Bền một ḷng dũng cảm, chí hy sinh,
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.
4. Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vang, bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên,
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.
Nhưng máu họ đă len vào mach đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non song,
Và anh hồn cùng với tấm tinh trung
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt. (20 & phụ lục)
Việt Tâm (100 Bài tập đọc Lớp Nhứt & Lớp Nh́)
3. T̀NH YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
T́nh thương yêu gia đ́nh, cha mẹ anh em và người thân là t́nh cảm khởi đầu cho t́nh yêu đồng bào, t́nh yêu quê hương đất nước.
“…Con sẽ cảm thấy t́nh yêu nước, khi con ở nước ngoài, và chợt nghe thấy một người trong đám thợ thuyền nói tiếng nước con, theo ḷng con xúi dục, tự nhiên con đến hỏi chuyện người bạn không quen ấy. Con sẽ cảm thấy t́nh yêu nước khi con nghe người ngoại quốc lăng mạ xứ sở con, ḷng tức giận sẽ làm cho con nóng mặt…” (21)
21.- Hà Mai Anh: Ḷng ái quốc, trang 70.
Nhằm un đúc tinh thần yêu nước cho học sinh, đề cao ḷng tự hào dân tộc, ca ngợi những chiến công oanh liệt bảo vệ tổ quốc của các bậc tiền nhân, bài thơ sau đây nhắc nhở học sinh chăm chỉ học để sau nầy nối chí tiền nhân (22 & phụ lục)
22.- Có ư kiến cho rằng bài thơ Giờ Quốc Sử của Đoàn Văn Cừ được trích từ bài thơ “Bản đồ nước Việt” của cùng tác giả để đưa vào sách giáo khoa (?). Xem phần phụ lục
GIỜ QUỐC SỬ
Những buổi sáng, vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ Quốc sử.
Thầy tôi bảo: “Các em nên nhớ rơ,
“Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng thưở trước của giang san,
Đă đổ máu v́ lợi quyền dân tộc.
Các em phải đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này nối được chí tiền nhân.
Ta chắc rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân tộc Việt sẽ là dân hùng liệt.
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam.
Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm,
Đầy chiến thắng, đầy vinh quang máu thắm.”
Đoàn Văn Cừ (Tập đọc lớp Nhất)
4. T̀NH YÊU NHÂN LOẠI
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Con người cùng sống trên quả địa cầu, không phân biệt màu da, chủng tộc. Tất cả đều là nguời như nhau, sao nỡ giết hại nhau. Chuyện kể hai người lính của hai quốc gia đối nghịch giao chiến nhau. Sau chiến trận, cả hai đều bị thương, nằm lại trên chiến trường…(23)
23.- Trần Văn Chánh (2012).
T̀NH NHÂN LOẠI
Sau một trận giao tranh ác liệt,
Giữa sa trường xác chết ngổn ngang.
Có hai chiến sĩ bị thương,
Hai người hai nước hiện đương nghịch thù.
Họ đau đớn khừ khừ rên siết,
Vận sức tàn cố lết gần nhau.
Phều phào gắng nói vài câu,
Lời tuy không hiểu, hiểu nhau nỗi ḷng:
Họ hai kẻ không cùng Tổ quốc,
Nhưng đă cùng v́ nước hy sinh.
Cả hai ôm ấp mối t́nh,
Yêu thương đất nước, gia đ́nh, quê hương.
Đêm dần xuống, chiến trường sương phủ,
Một thương binh hơi thở yếu dần.
Trước khi nhắm mắt từ trần,
Xót thương người bạn tấm thân lạnh lùng.
Anh cởi áo đắp trùm lên bạn,
Rồi tắt hơi! thê thảm làm sao!
Cho hay khác nghĩa đồng bào,
Nhưng t́nh nhân loại c̣n cao hơn nhiều!
Đặng Duy Chiểu (Quốc văn mới)
IV. KẾT LUẬN
Dù thời gian có trôi qua, hoàn cảnh có biến đổi, nhưng giá trị đạo đức làm người trong các trang sách quốc văn, như kính yêu cha mẹ, t́nh thầy tṛ, bè bạn, ḷng yêu quê hướng đất nước, t́nh yêu đồng bào và t́nh nhân loại…vẫn in sâu trong kư ức của các học sinh qua bao thế hệ.[
Thương yêu con người, biết quư trọng đích thực cuộc sống an b́nh của con người [b][size=3][color=green][i]là nét đặc sắc nhứt của nền văn hóa dân tộc Việt Nam hàm chứa trong các sách giáo khoa môn quốc văn của nền giáo dục Miền Nam trước 1975.
Tóm lại, trong giai đoạn trước năm 1975 nội dung các sách giáo khoa môn quốc văn của nền giáo dục miền Nam chú trọng đến những vấn đề đạo đức truyền thống, hướng tới triết lư giáo dục của Việt Nam Cộng Ḥa :
VNCH ĐĂ ĐỂ LẠI " DI SẢN LỚN VỀ VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC "
Nhà sách Khai Trí thời VNCH ở Sài G̣n trước 1975
Việt Nam Cộng Ḥa thành lập ngày 26/10/1955, đang lúc chiến tranh nên quốc sách bảo vệ tự do được ưu tiên, nhưng không phải v́ thế mà quên lăng mục đích xây dựng một xă hội dựa trên triết lư nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Lời mở đầu Hiến Pháp 1956 ghi rơ :
"…dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện."
C̣n Điều 11 của Hiến pháp 1967 ghi rơ :
" Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản ."
CON NGƯỜI LÀM GỐC
Việt Nam Cộng Ḥa nh́n nhận mọi người đều có quyền và có bổn phận như nhau, không ai được sử dụng người khác làm phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu cá nhân hay đảng phái.
Người miền Nam tin rằng giới lănh đạo cũng là con người nên đều mắc phải những sai lầm, v́ thế cần xây dựng một thể chế đa nguyên, đa đảng đối lập, với luật pháp chặt chẽ để kiểm soát quyền lực của tầng lớp lănh đạo.
Việt Nam Cộng Ḥa nh́n nhận sự khác biệt giữa người và người, ngăn cấm việc kỳ thị giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, sắc tộc, tŕnh độ học vấn hay kỳ thị dựa trên lư lịch, trên chính kiến, mọi người đều có cơ hội b́nh đẳng.[/i][/color][/size][/b]
Mọi chiến lược, chính sách, chủ trương, hành động quốc gia đều phải phù hợp với nhân sinh quan về con người, với mục đích phục vụ con người, quan tâm tới quyền lợi và hạnh phúc của con người.
Ngoài việc xây dựng thành công nền giáo dục nhân bản, mọi sinh hoạt tôn giáo, sắc tộc, hướng đạo, văn hóa, văn nghệ, nghệ thuật, dân sự đều được đối xử một cách công bằng không thiên vị.
Chính quyền miền Nam nh́n nhận và bảo vệ quyền con người, quyền dân sự được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế nhân quyền.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, gia đ́nh những người theo cộng sản vẫn được đối xử một cách công bằng như mọi công dân khác :
- Được pháp luật bảo vệ,
- Được quyền bầu cử, quyền gia nhập quân đội bảo vệ đất nước,
- Quyền tham gia chính trị,
- Được làm ăn buôn bán,
- Con em họ được đến trường như mọi trẻ em khác tại miền Nam.
Từ năm 1962, chương tŕnh Hồi chánh giúp trên 200 ngàn cán binh cộng sản buông súng quay về tạo dựng cuộc sống mới trong cộng đồng dân tộc.
DÂN TỘC LÀM NỀN TẢNG
Tinh thần dân tộc được h́nh thành và phát triển theo gịng lịch sử, tạo t́nh đoàn kết, gắn bó dân tộc và phát triển quốc gia.
Trong thời b́nh thúc đẩy người dân đóng góp phát triển kinh tế, xă hội, văn hóa, nghệ thuật, nâng cao dân trí.
Vào thời chiến giúp toàn dân đoàn kết đánh đuổi ngoại xâm.
Việt Nam Cộng Ḥa luôn đề cao các giá trị lịch sử dân tộc, độc lập, tự chủ, ngôn ngữ, nghệ thuật, văn hóa.
Ngay từ tấm bé trẻ em miền Nam được dạy yêu nước thương ṇi.
Người miền Nam luôn tôn trọng các giá trị đặc thù, các truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong mọi sinh hoạt gia đ́nh, nghề nghiệp, sắc tộc, địa phương và đất nước.
Chính phủ miền Nam chủ trương bảo tồn và phát huy những tinh hoa, những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc, để không bị mất đi hay bị đồng hóa với văn hóa nước ngoài.
Người miền Nam giữ ǵn văn hóa dân tộc nhưng luôn cởi mở, cầu tiến, học hỏi, gạn lọc điều hay cái đẹp của văn hóa dân tộc khác.
TỰ DO ĐỂ TIẾN BỘ
Việt Nam Cộng Ḥa lấy triết lư khai phóng làm rường cột thăng tiến, mọi người được tự do mở rộng tầm nh́n:
- Tự do trau dồi năng khiếu
-Tự do ngôn luận
- Tự do quyết định cho chính ḿnh
- Tự do t́m ra sự thật, ra điều hay, lẽ phải, t́m đến chân, thiện, mỹ.
Ngay từ nhỏ trẻ em miền Nam đă được giáo dục tự do, được khuyến khích mở rộng tầm nh́n tiếp nhận những tư tưởng và kiến thức tân tiến trên thế giới.
Nhờ vậy xă hội miền Nam đào tạođược những công dân tự do, sẵn sàng nhận trách nhiệm, tôn trọng luật pháp, biết xây dựng kinh tế, phát triển xă hội, đón nhận văn minh thế giới và tích cực đóng góp vào sự thăng tiến nhân loại.
Miền Nam đă xây dựng một hiến pháp và một thể chế dân chủ tam quyền phân lập rơ ràng.
Nền Cộng Ḥa tại miền Nam có thể được xem là một nền dân chủ hiến định và pháp trị tiên tiến vào bậc nhất trong khu vực Á châu thời ấy.
NỀN TẢNG TRIẾT LƯ VIỆT NAM CỘNG H̉A
Tổng hợp ba tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc tạo thành triết lư xây dựng Việt Nam Cộng Ḥa, một quốc gia vừa giành được độc lập, phải đối đầu với chiến tranh và chỉ trong ṿng 20 năm đă xây dựng được nền tảng vững chắc.
Một quốc gia với kinh tế tự do, y tế đại chúng, người cày có ruộng, báo chí tự do, tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật phát triển tự do, và một nền dân chủ hiến định, pháp trị với tam quyền phân lập rơ ràng.
Một xă hội dân sự với nhiều hội đoàn dân sự, gồm các tổ chức tôn giáo, nghiệp đoàn, hướng đạo, đồng hương, tương trợ, từ thiện, nghiên cứu, các câu lạc bộ, đă được h́nh thành tại miền Nam.
Đặc biệt, nền giáo dục dựa trên nhân bản, khai phóng và dân tộc, đă đào tạo được những thế hệ công dân tốt cho miền Nam, cho Việt Nam và cho nhân loại.
VĂN HÓA VIỆT NAM CỘNG H̉A Ở HẢI NGOẠI
Con người làm gốc, dân tộc làm nền, tự do để tiến bộ đă trở thành nền tảng văn hóa Việt Nam Cộng Ḥa, được bảo tồn và được truyền đạt đến các thế hệ Việt Nam ngày nay.
Văn hóa thể hiện qua cách sống cách suy nghĩ. Người Việt Nam Cộng Ḥa sống, suy nghĩ và hướng về tương lai hoàn toàn khác với người cộng sản.
Sau 20 năm chia cắt lấy thời điểm 30/4/1975 làm mốc, miền Bắc đă trở thành một bản sao của cộng sản Trung Hoa.
Xem lại phim ảnh cách ăn mặc, cách phục sức, cách sống, cách giáo dục, xem lại sách báo, lại văn thơ, lại âm nhạc, lại tranh ảnh miền Bắc bạn sẽ dễ dàng nhận ra điều này.
Ở những nơi đông người Việt sinh sống nhiều hội đoàn dân sự được thành lập, có trường dạy tiếng Việt, có sách giáo khoa soạn theo chương tŕnh trước 1975, có tổ chức những buổi lễ ghi ơn các anh hùng dân tộc, tổ chức Tết, Tết Trung Thu cho trẻ em.
Mỗi gia đ́nh đều cố gắng ǵn giữ tiếng Việt cho con em, duy tŕ những sinh hoạt gia đ́nh và cộng đồng, vừa giảng giải cho con em truyền thống dân tộc, vừa nhắc nhở con em lư do phải bỏ nước ra đi.
Nhiều ban nhạc, ban kịch, ban cải lương, câu lạc bộ văn học nghệ thuật và cả điện ảnh cũng được h́nh thành ở khắp nơi.
Truyền thanh, truyền h́nh và báo chí là những phương tiện phục vụ cộng đồng có mặt ở mọi nơi.
Nhiều nơi c̣n xây dựng đền thờ Quốc Tổ, đền thờ và tượng đài các anh hùng dân tộc, viện bảo tàng, chùa, nhà thờ, vơ đường, trung tâm sinh hoạt cộng đồng.
PHỤC HỒI NHỮNG G̀ TỪ QUÁ KHỨ RA SAO ĐÂY ?
Ở trong nước, người c̣n nhớ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn âm thầm ǵn giữ và truyền bá cho thế hệ tiếp nối nền văn hóa nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Theo tôi, sức sống của văn hóa Việt Nam Cộng Ḥa vô cùng mănh liệt.
Ở hải ngoại, 44 năm qua người Việt Nam Cộng Ḥa vừa bảo vệ cộng đồng, bảo tồn văn hóa, vừa hỗ trợ quốc nội đấu tranh cho tự do và vẹn toàn lănh thổ.
Dù bị chính quyền hiện nay cấm âm nhạc, văn học, nghệ thuật, cách sống tại Việt Nam ngày nay được phục hồi mạnh mẽ.
Phong trào thoát Trung chính là nỗ lực đẩy lùi tỳ vết văn hóa Trung Quốc cộng sản đưa vào Bắc Việt Nam từ giai đoạn 1950-54 c̣n tồn đọng tại Việt Nam.
Ngay cả nhiều người cộng sản miền Nam trong tiềm thức vẫn chưa quên một xă hội miền Nam đầy nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Trước Quốc Hội cộng sản, 12/9/2018, bà chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân phải thừa nhận kiến thức về sử kư và địa lư nước nhà, bà học từ thời Việt Nam Cộng Ḥa nay vẫn nhớ không quên điều ǵ.
Bà Ngân biểu lộ ḷng luyến tiếc v́ giờ đây trẻ em học hành khổ sở, nhưng sử kư và địa lư nước nhà hầu hết đều không biết.
Người dân miền Nam biểu t́nh phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974
Biểu t́nh chống Trung Quốc xâm lược ngày 5/6/2011
Triết lư nhân bản, khai phóng và dân tộc ngày nay được nhiều người miền Bắc biết đến, nhất là giới trẻ Việt Nam những người đang t́m kiếm một con đường khác với cộng sản chủ nghĩa đă bị nhân loại đào thải.
Tự do và dân chủ chỉ là điều kiện cần, mục đích và triết lư sống của dân tộc là điều kiện đủ để phục hồi Việt Nam.
Mục đích và triết lư sống giúp mỗi dân tộc biết đang ở đâu, đang làm ǵ, đang sống như thế nào, sẽ đi về đâu, đi cách nào và làm sao để đạt được mục tiêu tối thượng trong hoàn cảnh và khả năng có được.
Tôi tin rằng mục đích, triết lư và văn hóa xây dựng xă hội thời Việt Nam Cộng Ḥa đă thích hợp và thành công ở miền Nam, cũng sẽ thích hợp với cả nước một ngày trong tương lai.
Nhân bản, khai phóng và dân tộc sẽ trở thành mục đích, triết lư và văn hóa chung cho toàn dân tộc làm nền tảng đưa đất nước đi lên theo kịp đà tiến bộ và văn minh nhân loại.
Nguyễn Quang Duy từ Melbourne, Australia.
Last edited by hoathienly19; 10-28-2020 at 11:01.
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Nên nhớ lúc đó tôi đang học lớp ba tiểu học.
Năm lớp ba tiểu học, tôi đã được khuyến khích tự do phát huy tư tưởng và không nên tin vào sách vở một cách mù quáng mà phải biết dùng đầu óc để suy luận.
Một điểm đặc biệt trong lối dạy của thầy là ông đối xử chúng tôi như những cá nhân có bản chất trung thực, lương thiện.
Thầy không bao giờ nghi ngờ chúng tôi nói láo, gian lận, hoặc chối tội.
Thí dụ có đứa đi học trễ hoặc quên bài, ông hỏi lý do, và lúc nào cũng tin lời học trò. Ông không căn vặn, hoạnh họe, hoặc hỏi thêm, cho dù lý do nghe hơi khó tin. Việc này được thể hiện cụ thể qua kiểu thầy ghi điểm vào sổ như sau.
Thỉnh thoảng, ông khảo bài học trò. Lối khảo bài của ông khác hẳn các thầy cô sau này tôi học.
Thay vì gọi từng đứa lên đứng bên cạnh bàn, ông đi xuống chỗ ngồi đám học trò, và đảo qua một vòng. Ông lấy quyển vở học trò, hỏi bài và ghi điểm vào vở, có lúc có lời phê, có lúc không.
Tôi không nhớ là thầy khảo bài cả lớp hay chỉ một số, nhưng hình như cả lớp, vì sau đó ông trở về bàn và gọi tên từng đứa để ghi vào sổ điểm.
Thầy không hề thắc mắc hoặc lo sợ học trò nói sai điểm, và ghi xuống điểm học trò nói. Một cách kỳ lạ, không có đứa nào nói sai điểm.
Trong suốt cả năm học, có cả hàng mấy chục lần ghi điểm như vậy, chúng tôi biết là nếu muốn gian lận nói điểm cao hơn, thầy cũng chẳng biết. Nhưng không đứa nào nói sai điểm cho cao hơn. Làm sao tôi biết chuyện đó ?
Tôi không biết chắc 100%, nhưng chúng tôi thường coi điểm lẫn nhau, và tôi biết những đứa quanh tôi không nói sai dù điểm tụi nó rất tệ (chỉ có 2-3 trên 10 điểm).
Tôi không nghe đứa nào kiện cáo bạn mình nói sai điểm. Hình như sự trung thực tiềm tàng trong mỗi đứa nên không đứa nào nghĩ đến chuyện gian lận. Lúc bấy giờ, tôi cũng chẳng suy nghĩ gì về chuyện đó và coi nó bình thường, không có gì đáng nói.
Nhưng sau này khi nghĩ lại, tôi thật cảm phục cách đối xử đó.
- Tìm tòi và cắt dán hình ảnh thú vật trong các tạp chí Tây phương cho môn vạn vật.
Ngay ở năm Đệ Thất, tôi đã được khuyến khích tự do sáng tạo, khiến tôi yêu tiếng Việt và quý sự tự do diễn tả ý tưởng, và tự do tìm tòi và nghiên cứu.
Học sinh trong pḥng hóa nghiệm, Thủ Đức 1969
3. Những buổi thuyết trình trong lớp và toàn trường cho chúng tôi tự do tư tưởng và giúp phát huy khả năng tìm tòi, suy luận, và tinh thần cư xử trưởng thành :
Trong năm lớp Đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ), trường phát động chương trình thuyết trình. Chương trình này nhằm giúp học sinh phát huy kh̉ả năng nghiên cứu, bình luận, lý luận, ăn nói trước công chúng, và quan trọng nhất là tạo cơ hội cho học sinh phát biểu ý kiến tự do.
Tôi không rõ chương trình này chỉ áp dụng cho lớp Đệ Ngũ, hay chỉ xảy ra trong niên khóa đó, vì các năm kế tiếp không còn chương trình này nữa.
Ngoài ra, tôi không rõ đây có phải là một chương trình đưa ra từ Bộ Quốc Gia Giáo Dục hay chỉ là sáng kiến của hội đồng giáo sư trường tôi.
Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết được sức mạnh của tự do và sáng tạo khi học sinh được cho phép tìm tòi nghiên cứu độc lập.
Chính tôi cũng không hiểu tại sao các thuyết trình viên làm được chuyện đó. Không những thế, nhiều thuyết trình viên giảng bài còn hay hơn cả thầy cô. Học sinh thường chăm chú nghe bạn mình thuyết trình hơn là nghe lời thầy giảng.
Phần hỏi đáp là phần cao đỉnh của buổi thuyết trình. Thông thường, khi thầy cô giảng bài, chúng tôi ít khi giơ tay hỏi. Nhưng khi bạn mình lên giảng bài thì chúng tôi được dịp "quay]thuyết trình viên túi bụi, y hệt như những tranh luận trong các diễn đàn trên Internet bây giờ.
Cũng có lúc thuyết trình viên "bí" thì có các bạn "cứu bồ" hoặc thầy cô ra tay.
Phần hỏi đáp, nhất là trong môn Việt văn, kéo dài hơn nửa tiếng, nhiều khi hết cả giờ, phải tiếp tục kỳ sau. Điểm độc đáo nhất là thầy cô thường đứng ngoài cuộc tranh cãi, và để chúng tôi tự do phát biểu ý kiến, và chỉ can thiệp khi các câu hỏi ra ngoài đề hoặc cuộc tranh cãi trở nên gay go, hoặc khi thuyết trình viên tự động "cầu cứu."
Một điểm kỳ lạ nữa là chúng tôi thường "mày tao chi tớ" với nhau trong cuộc nói chuyện hàng ngày, nhưng trong cuộc hỏi đáp hoặc tranh cãi trong buổi thuyết trình, chúng tôi cư xử với nhau rất nhã nhặn và lịch sự.
Tuy chương trình thuyết trình không còn tiếp tục trong lớp trong những năm sau, một chương trình thuyết trình đặc biệt được tổ chức ở phạm vi cao và rộng rãi hơn trong một niên khóa sau đó.
Học sinh thực hành mổ ếch, Thủ Đức 1969 [
Năm tôi học Đệ Tam (lớp 10 bây giờ), khối Học Tập toàn trường tổ chức các buổi thuyết trình trên mọi đề tài, không nhất thiết dính líu đến đề tài học trong lớp, và bất cứ học sinh nào, từ các em Đệ Thất tới các anh Đệ Nhất (lớp 12 bây giờ), cũng có thể tham dự là thuyết trình viên hoặc chỉ là người tham dự.
Những hoạt động thuyết trình trong lớp năm Đệ Ngũ và toàn trường năm Đệ Tam nhắm vào các đề tài học đường. Nhưng thu thập kiến thức học hành chỉ là một trong nhiều thành quả.
Xung quanh thành quả học tập này là các thành quả phụ thuộc nhưng quan trọng trong việc hun đúc chúng tôi trở thành những công dân hữu ích cho xã hội.
Tàu ngầm Kilo không nhận lính con gái.(đăng trên điện báo VTC News của Việt Cộng)
“ Lính con gái ” là cái chó ǵ ?
Chữ dùng đúng phải là nữ quân nhân.
2. Việt cộng viết :
Chiến sĩ nhí .(đăng trên tờ điện báo VTC News ngày 17 tháng 6 -2015)
Chữ dùng đúng phải là Thiếu Sinh Quân.
Dùng chữ “chiến sĩ nhí ” là không nghiêm túc là chửi cha chính thằng viết bài, chửi cha tiếng Việt, chửi cha độc giả, coi thường độc giả và chửi cha luôn các cậu bé đang được huấn luyện trong quân đội !
3. Việt cộng viết :
Chuyên cơ
Chữ dùng đúng phải là phi cơ riêng.
4. Việt cộng viết :
Cơ trưởng, cơ phó
Chữ dùng đúng phải là phi công chính, phi công phụ.
Theo Tự Điển Việt Nam của hai tác giả Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ th́ :
- “ Cơ ” có nghĩa là : Cơ khí, máy móc.
Phi công chính là người phụ trách lái máy bay và chỉ huy luôn toàn bộ phi hành đoàn, gồm phi công phụ và các tiếp viên.
Phi công là nghề cao quư v́ nghề nghiệp của họ đ̣i hỏi phải có thể lực tốt, phải có tŕnh độ văn hóa giỏi và nhất là phải có đạo đức, v́ họ nắm trong tay hàng trăm sinh mạng của hành khách.
Nếu tai nạn xảy ra, toàn bộ người trên máy bay sẽ bị thiệt mạng, và c̣n có thể làm cho nhiều người dưới đất bị chết.
Do đó, phải dùng chữ “phi công chính” mới lột tả hết được những đặc tính nghề nghiệp của nghề phi công.
Không thể tùy tiện sáng chế ra mấy chữ “cơ trưởng,” “cơ phó” để “hấp diêm” bôi nhọ tiếng Việt và chửi cha tiếng Việt !
Nghề phi công th́ phải dùng đúng chữ của nó là “phi công”.
Không thể tùy tiện biến nghề đó thành ra “máy trưởng” (thợ máy)
Nếu cứ t́nh trạng tùy tiện này th́ có lẽ trong tương lai sẽ xuất hiện thêm chữ mới như “nước trưởng” (chủ tịch nước !)
Trước đây, Việt Cộng thường dùng chữ “giặc lái” hoặc “tổ lái” để chỉ các phi công của Việt Nam Cộng Ḥa và phi công Mỹ !
Thật là đáng buồn, người ta nói hiện nay, nước Việt Nam đang ở trong thời đại sâu bọ lên làm người là rất đúng.
Những thằng ba đời thất học, là bần cố nông, th́ bây giờ nó đang nắm trong tay những phương tiện truyền thông, cho nên bọn chúng tha hồ làm mưa làm gió, viết láo, viết bậy, chửi cha tiếng Việt, riết rồi đến mức, người Việt đọc tiếng Việt cũng không thể hiểu được
5. Việt cộng viết :
Mặt bằng
– Chúng tôi đang t́m kiếm mặt bằngđể xây dựng nhà máy
Chữ dùng đúng là miếng đất hoặc khu đất.
– Cần thêm mặt bằng để nới rộng pḥng khách
Chữ dùng đúng là diện tích.
6. Việt cộng viết :
Cán bộ giải phóng mặt bằng
– Đây là sự lươn lẹo về từ ngữ, “cán bộ giải phóng mặt bằng” chính là bọn cán bộ Việt Cộng chuyên đi ăn cướp đất, cướp nhà của người dân.
Quư vị vào YouTube sẽ thấy bọn “cán bộ giải phóng mặt bằng” ở huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An, đến nhà ông Nguyễn Trung Cang và bà Mai Thị Kim Hương để lập biên bản, “giải phóng mặt bằng” (ăn cướp đất)!
Có lẽ trên thế giới chỉ duy nhất ở Việt Nam có cái nghề hết sức quái đản này:
“Cán bộ giải phóng mặt bằng”
7. Việt cộng viết :
Thể hiện
Ví dụ : Bài hát “Đón Xuân.” - Ca sĩ thể hiện: ABC
Dùng chữ “thể hiện” là không đúng.
Trong trường hợp này phải dùng chữ “tŕnh diễn” hay “tŕnh bày.“
Thể hiện là một cái ǵ chưa rơ, chưa đủ sức thuyết phục, gây được ḷng tin nơi người khác, do đó nó phải được thể hiện thành hành động.
Ví dụ:
– Những lời hứa hẹn giúp đỡ người nghèo đều đă được mọi người thể hiện bằng những hành động cụ thể.
– Các thanh niên đă thể hiện ḷng ái quốc của ḿnh bằng cách xung phong ra chiến trường.
8. Trước năm 1975, chúng ta thường dùng chữ “tŕnh diễn” hay
- “ Tŕnh bày .”
Ví dụ:
– Chúng tôi xin giới thiệu :
Bài hát “Cánh Thiệp Đầu Xuân” của Lê Dinh, ca sĩ tŕnh bày :
Thanh Thúy !
Khi giới thiệu một bản nhạc, người quốc gia luôn luôn giới thiệu tên nhạc sĩ sáng tác và ca sĩ tŕnh bày.
Trong khi đó, bọn Việt Cộng chỉ giới thiệu tên ca sĩ, c̣n tên nhạc sĩ không bao giờ được giới thiệu, kể cả khi bọn chúng phát hành những video, CD hoặc băng cát xét.
9. Việt cộng viết :
Ca từ
Chúng ta thường dùng chữ “nhạc và lời“.
Ví dụ:
Giới thiệu bài hát “Chiều Lên Bản Thượng,” nhạc và lời của Lê Dinh.
Hai chữ “ca từ” hoàn toàn vô nghĩa, chỉ có bọn cán ngố Việt Cộng mới dùng!
10. Việt cộng viết :
Kỹ sư dân sự
Đây là chữ dùng sai và vô nghĩa.
Những tên cán ngố Việt Cộng dịch từ chữ b]“Civil engineer.“ [/b][b][size=3][color=indigo][i]
Trước năm 1975, chúng ta thường gọi là “kỹ sư công chánh.“
11. Việt cộng viết : Gậy tự sướng (đăng trên báo điện tử VTC News của Việt Cộng)
– Công nhân sở điện lực Hà Nội dùng gậy tự sướng để ghi số điện tiêu thụ trong đồng hồ điện.
Gậy tự sướng là cái… chó ǵ ?
Đại khái, đó là cây gậy có gắn camera, dùng để “đọc” và lưu lại trong bộ nhớ những con số trong đồng hồ điện.
Ở Hà nội, những đồng hồ điện thường được gắn trên cao nơi cột điện. Trước khi có gậy tự sướng th́ công nhân phải bắc thang, trèo lên và ghi chép bằng tay.
12. Việt cộng viết :
Đâm xe liên hoàn trên cao tốc TP. HCM – Trung Lương(báo VTC News online, ngày 13-8-2015).
– Hai xe đâm nhau, hai tàu thủy đâm nhau
Nhận xét :
Chữ dùng đúng phải là “tông,” “tung” hoặc “đụng” chớ không có đâm chém ǵ ở đây hết !
- Thế nào là liên hoàn ?
Liên hoàn là thành một ṿng tṛn.
Ví dụ:
– Xe số một tông xe số hai, xe số hai tông xe số ba, rồi xe số ba lại tông xe số một …
C̣n đụng xe trên xa lộ, nhiều xe nối đuôi nhau, tông nhau th́ người ta nói là đụng xe giây chuyền.
13. Việt cộng viết :
Cặp đôi
– Họ là cặp đôi hoàn hảo.
– Cặp đôi siêu mẫu X và Y vừa mới đi nghỉ mát tại Ư.
– Cặp đôi t́nh nhân ôm nhau vỡ ̣a hạnh phúc !
Nhận xét:
Đă “cặp” rồi lại c̣n “đôi”.
Sao mà ngu quá vậy , mấy thằng cán ngố ?
Trong tiếng Việt, chữ “cặp” tượng trưng cho con số 2, chữ “đôi” cũng tượng trưng cho con số 2.
Ví dụ, chúng ta thường nói :
– Làm ơn đưa cho tôi đôi đũa (chớ không ai nói ngu là CẶP ĐÔI ĐŨA).
– Tôi vừa biếu ông ấy một cặp rượu (chớ không ai nói ngu là CẶP ĐÔI RƯỢU).
– Đôi t́nh nhân rủ nhau đi nghỉ mát tại Đà Lạt (không có ai ngu nói là CẶP ĐÔI t́nh nhân)
– Mấy tên cán ngố thường dùng mấy chữ “cặp đôi hoàn hảo” là dịch từ chữ “a perfect couple” trong tiếng Anh.
Tiếng Việt chúng ta có câu tương đương :
Đôi t́nh nhân thật xứng, hoặc xứng đôi vừa lứa.
Không có ai nói ngu là: CẶP ĐÔI HOÀN HẢO hết !
Ngay cả dân hai lúa nó cũng không nói như vậy !
C̣n tiếp ,
Last edited by hoathienly19; 11-08-2020 at 07:50.
The Following 2 Users Say Thank You to hoathienly19 For This Useful Post:
Tại sao lại dùng chữ “bức xúc” ngu dốt của giặc Cộng ?
Bộ tiếng Việt do ông cha chúng ta để lại nghèo lắm hay sao ?
19. Việt Cộng viết : Trải nghiệm .
– Sau một tháng trải nghiệm du lịch ở Việt Nam, du khách quốc tế rất ấn tượng
Nhận xét :
Đây cũng là chữ dùng ngu dốt của bọn cán ngố Việt Cộng.
Chữ này không hề có trong tự điển mà nó chui ra từ những bộ năo của những con khỉ đột Việt Cộng.
Cả đời bọn khỉ Cộng sống chui rúc trong rừng, chưa bao giờ được trông thấy quyển tự điển.
Bây giờ được đảng và nhà nước giao phó cho chức vụ “tổng biên tập” th́ bọn chúng tha hồ múa may, quay cuồng, hiếp dâm và chửi cha tiếng Việt về mọi mặt !
20. Việt Cộng viết :
Cô ấy ăn mặc rất chỉnh chu.
(Ư nói ăn mặc đẹp. Đăng trên báo VTC News)
Nhận xét:
Chữ này thối không chịu được. “ Chỉnh chu ” là cái chó ǵ?
Nghe như một tiếng đánh rắm của người đang bị no hơi, đầy bụng !
Đúng là chữ nghĩa của bọn cán ngố Việt Cộng, hiếp dâm và chửi cha tiếng Việt !
Tại sao không viết :
– Ăn mặc đẹp, ăn mặc hợp thời trang, ăn mặc lịch sự, thanh nhă, đúng mốt ..vv…
21. Việt Cộng viết: Khả năng.
– Ngày mai có khả năng mưa (Trời có thể mưa).
– Có Khả năng Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam (có thể Trung quốc sẽ đánh Việt Nam).
Nhận xét:
Việt Nam Tự Điển định nghĩa “khả năng” là “tài sức,” “sức có thể cáng đáng.”
Khả năng là danh từ và thường được dùng cho con người.
Ví dụ: Ông ấy có tài lănh đạo nhưng thiếu khả năng chuyên môn.
Bọn cán ngố Việt Cộng dùng chữ “ khả năng ” một cách bừa băi, kể cả trời đất ǵ cũng “ khả năng !”
22. Việt Cộng viết : Sự can thiệp của dao kéo.
(báo điện tử VTC News của Việt Cộng)
– Cô ấy sở hữu khuôn mặt đẹp. Khả năng là có sự can thiệp của dao kéo
Nhận xét:
Chúng ta thường nói :
“ Cô ấy có khuôn mặt đẹp. Có thể là nhờ giải phẫu thẩm mỹ”.
Đây là lối nói b́nh thường của những CON NGƯỜI. Chỉ có bọn cán ngố Việt Cộng SÚC VẬT mới dùng nhóm chữ “sự can thiệp của dao kéo”!
23. Việt Cộng viết : Sở hữu.
(báo điện tử VTC News của Việt Cộng)
– Hot girl ABC Sở hữu khuôn mặt ấn tượng, sở hữu thân h́nh chuẩn
– Cô ấy sở hữu đôi mắt đẹp.
– Người mẫu sở hữu đôi chân dài miên man.
– Ca sĩ sở hữu chất giọng khàn.
– Đại gia X sở hữu biệt thự tiền tỷ.
Nhận xét:
Theo Việt Nam Tự Điển, chữ “sở hữu”là một danh từ.
– Các nông dân được quyền canh tác nhưng không được cấp quyền sở hữu miếng ruộng.
Tuy nhiên, bọn cán ngố Việt Cộng đă dùng chữ " sở hữu " như một động từ, giống như tên hồ tặc “học tập tốt, lao động tốt”.
Theo cách nói b́nh thường, chúng ta nói:
– Cô ấy CÓ khuôn mặt đẹp.
– Đứa bé ấy CÓ đôi mắt đẹp
– Chàng trai ấy CÓ thân h́nh cường tráng
Chỉ có đám cán ngố Việt Cộng, thằng dốt ưa khoe chữ, mới hợm hĩnh dùng chữ “SỞ HỮU!”
Chúng ta hăy đọc những câu thơ sau đây của nhà thơ Hữu Loan trong bài thơ “Màu Tím Hoa Sim,” được Phạm Duy phổ nhạc:
– “… Nàng CÓ ba người anh, đi bộ đội lâu rồi.
Nàng CÓ đôi người em,
CÓ em chưa biết nói.
Tóc nàng hăy c̣n xanh…”
Quư vị hăy tưởng tượng, nếu viết theo kiểu của bọn cán ngố Việt Cộng th́ :
“… Nàng SỞ HỮU ba người anh, đi bộ đội lâu rồi.
Nàng SỞ HỮU đôi người em,
SỞ HỮU em chưa biết nói …”
Như vậy th́ tiếng Việt c̣n ra thể thống ǵ nữa ? ? ! !
Nó đă biến thành ngôn ngữ của loài súc vật !
24. Việt Cộng viết : Xử lư.
– Ca sĩ đó xử lư bản nhạc chưa được chuẩn !
– Xử lư thông tin, xử lư rác thải, xử lư tội phạm, xử lư số liệu, xử lư nước cống, xử lư đàn ḅ, xử lư những suy nghĩ tiêu cực.
Nhận xét :
Theo Việt Nam Tự Điển, “xử lư” là “cứ lư lẽ và luật lệ mà phân xử, không xét về mặt t́nh cảm và phạm tội”
Chúng ta chỉ dùng chữ "xử lư " trong các vấn đề thuộc về luật pháp.
Trong khi đó, bọn cán ngố Việt Cộng th́ dùng bừa băi, bất cứ cái ǵ cũng “xử lư”.
Ví dụ:
“Ca sĩ xử lư một bản nhạc”
“Xử lư nước cống”
“ Xử lư tư tưởng”
- “ Xử lư rác”
- “ Xử lư đàn gà”
“ Xử lư cái mả bố của chúng nó ! !”.
Bọn chúng nó đă quen giết người cho nên tâm địa của kẻ ác thường được thể hiện qua lời nói, ví dụ như :
Xử lư, giải phóng, quản lư, dao kéo, đâm chém …vv..
25. Việt Cộng viết :
Vô tư.
– Các anh cứ ăn uống vô tư đi !
– Các cặp đôi cứ vô tư hôn nhau ngoài công viên.
Nhận xét :
Theo Việt Nam Tự Điển :
“Vô tư” là tĩnh từ, nghĩa:
“Có óc công b́nh, không thiên vị”.
Ví dụ:
- Tâm hồn vô tư của trẻ thơ.
Nhưng bọn cán ngố Việt Cộng dùng chữ “vô tư” như một trạng từ. Nghĩa của nó tựa như chữ “thoải mái”.
Do hợm hĩnh, ngu dốt, ưa khoe chữ nhưng thực ra bọn chúng chỉ khoe ra cái đuôi dốt của ḿnh !
26. Việt Cộng viết :
Chất lượng.
– Hàng hóa đảm bảo chất lượng!
– Chất lượng giáo dục xă hội chủ nghĩa rất ưu việt!
– Chất lượng tư duy của trẻ em c̣n non nớt.
Nhận xét:
Viết đúng phải là : Hàng hóa bảo đảm PHẨM CHẤT (quality)
Nếu dịch sang tiếng Anh: Phẩm chất = Quality, Lượng = Quantity.
Hai chữ “chất lượng” là vô nghĩa.
Ví dụ quư vị mua một chiếc xe hơi. Công ty bán hàng có thể bảo đảm về “phẩm chất” chiếc xe chớ không ai có thể bảo đảm về “lượng”.
Các chữ “giáo dục” và “tư duy” là danh từ trừu tượng và là danh từ không đếm được (uncountable nouns).
Dùng chữ “ CHẤT LƯỢNG giáo dục”là sai hoàn toàn.
27. Việt Cộng viết :
Tố chất, chất giọng, chất thơ, chất nhạc.
– Đứa bé đó có tố chất thông minh (Viết đúng phải là: Tư chất thông minh).
– Ca sĩ đó có chất giọng khàn! (Viết đúng phải là: Ca sĩ đó có giọng khàn).
Chữ “chất” có nghĩa là “phẩm chất” (quality). Phải có giọng khàn như thế nào mới đạt “phẩm chất ”?
28.Việt Cộng viết :
Nữ hoàng nội y Ngọc Trinh đi dự kiện.
(báo VTC News)
Đi dự kiện là đi dự cái ǵ ? Phải chăng là kiện cáo ở ṭa án ?
Những tên cán ngố Việt Cộng đă dịch nhóm chữ “attending facts” là “tham dự sự kiện,” rồi tự động rút ngắn thành “đi dự kiện,” làm cho độc giả hiểu lầm là có kiện tụng ǵ đó ở ṭa án !
29. Việt Cộng viết :
Chọc khe.
– Vận động viên X vừa thực hiện một cú CHỌC KHE tuyệt đẹp, vượt qua được hàng rào hậu vệ của đối phương.
Nhận xét:
Trước năm 1975, kư giả Huyền Vũ thường dùng nhóm chữ “đá ḷn banh” để diễn tả thao tác đá ḷn trái banh qua háng đối phương.
Ví dụ :
– Trung phong số 7 của đội X đă khéo léo đá ḷn banh qua hậu vệ số 9 của đội Y.
30. Việt Cộng viết :
Tâm tư
Ví dụ:
Tên việt gian Phùng Quang Thanh, đại tướng của ngụy quân Việt gian Cộng Sản có biệt hiệu là “đồng chí TÂM TƯ”.
Lư do là hắn thường nói:
– Tôi nói ra điều này chắc các đồng chí rất TÂM TƯ, gia cảnh tôi rất nghèo, cả hai vợ chồng với hai đứa con chỉ sống trong một căn nhà có 60 mét vuông!
Từ đó tên Thanh heo nọc đă có biệt hiệu là “đồng chí TÂM TƯ” và nhiều tên bồi bút đă bắt chước cái lối nói ngu đần đó, viết bừa băi trên nhiều bài báo !
Một thằng lănh đạo, ủy viên Bộ Chính Trị, cấp bậc là đại tướng, chức vụ là bộ trưởng mà nói ngu như vậy th́ cả đất nước Việt Nam cũng sẽ bị ngu theo nó !
Kết Luận
Kể từ năm 1945 đến nay, sau 70 năm cai trị, đảng Việt gian Cộng Sản đă tàn phá rất khủng khiếp nền văn hóa của dân tộc Việt mà tổ tiên chúng ta đă khổ công gây dựng qua hàng ngàn năm.
Không chỉ riêng phần tiếng Việt bị hủy hoại, mất gốc, quái thai mà các phong tục, tập quán, tín ngưỡng và nhiều lănh vực khác cũng bị bọn chúng phá nát.
Cụ thể như bọn giặc đă đem tượng Quan Công vào đền thờ Đức Thánh Trần, đem tượng đại việt gian hồ chí minh vào các chùa, đặt ngang hàng với tượng Phật, đem tượng của nữ tướng cướp Nguyễn Thị Định vào đền thờ Hai Bà Trưng !
B . Các sinh hoạt học sinh biểu lộ tinh thần dân tộc và tự do dân chủ cao độ :
Sinh hoạt học sinh là những hoạt động do học sinh làm, có thể tự phát hoặc dưới sự hướng dẫn của nhà trường.
Ở tiểu học, theo như tôi nhớ, hầu như không có sinh hoạt học trò, ngoại trừ các buổi văn nghệ vào dịp phát phần thưởng cuối năm.
Trên trung học, chúng tôi có nhiều sinh hoạt học sinh ngoài chuyện học, như làm việc xã hội, văn nghệ, báo chí. Những việc này được thực hiện qua ban đại diện học sinh trong lớp và toàn trường.
1. Tinh thần dân tộc và thương yêu đồng bào được thể hiện từ tiểu học đến trung học :
Năm lớp Nhất (lớp 5 bây giờ), lễ ra trường và phát phần thưởng được tổ chức tại một cơ sở hành chánh địa phương.
Cuộc trình diễn văn nghệ là phần sáng chói trong buổi lễ. Tôi nhớ rất rõ cuộc trình diễn đó vì đứa hàng xóm nằm trong toán diễn viên nên hắn ta tập dượt nghêu ngao hát cả ngày.
Lúc bấy giờ, tôi không hiểu tại sao nhà trường chọn ca kịch "Hội Nghị Diên Hồng" cho buổi lễ phát phần thưởng, nhưng cuộc trình diễn tạo một ấn tượng sâu sắc và lâu dài trong tâm trí tôi, nhất là lúc đám nhóc bô lão la lớn :
"Quyết chiến" . Khi diễn viên chính hỏi :
" Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến ? " và "Hy sinh" cho câu hỏi :
" Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh ?"
Tinh thần dân tộc đã nảy mầm trong tâm trí tôi trong những năm tiểu học với hình ảnh Hai Bà Trưng và Hội Nghị Diên Hồng.
Tinh thần dân tộc không những thể hiện qua những quý trọng lịch sử mà còn thể hiện qua mọi hình thức của tình thương yêu đồng bào.
Trưng Nữ Vương oai hùng, diễn hành uy nghiêm trước 1975
Như sẽ đươc̣ trình bày sau, ở trung học, học sinh có ban đại diện mỗi lớp và toàn trường.
Đây không phải là những ban đại diện bù nhìn hoặc là công cụ của nhà trường, mà các đại diện học sinh thực sự hoạt động cho học sinh. Một trong những ban đại diện là ban xã hội.
Ban này chuyên môn làm những chuyện xã hội, tình nguyện cho các công tác cộng đồng, tham gia các hoạt động từ thiện.
Nhà trường chỉ cung cấp giáo sư hướng dẫn và các giúp đỡ hành chánh, như viết giấy giới thiệu hoặc xin phép. Một hoạt động xã hội hầu như xảy ra hàng năm là quyên tiền trợ giúp đồng bào lụt lội miền Trung. Các lớp tham gia tích cực đóng góp và có sự ganh đua trong việc thâu tiền.
Các trưởng ban xã hội làm việc tích cực, hô hào anh em trong lớp đóng góp. Anh trưởng ban lớp tôi ăn nói rất hay và lớp tôi hầu như năm nào cũng đóng góp khá cao.
Năm Đệ Tam, có vụ Cam Bốt "cáp duồn" người Việt Nam sống tại Cam Bốt. Hàng trăm ngàn người Việt Nam phải rời Cam Bốt về Việt Nam sống trong các trại tị nạn. Khối xã hội toàn trường phát động phong trào giúp người tị nạn.
Theo tôi biết, phong trào này do học sinh phát động và không do chỉ thị của nhà trường.
Chúng tôi hưởng ứng tích cực và cả trăm học sinh đi tới các khu đất tị nạn và giúp dựng lều trại. Tôi nhớ tôi cuốc đấ̃t cả buổi đến độ đau nhức cả hai tay.
Lúc ấy, khái niệm "bầu ơi thương lấy bí cùng" hình như không rõ rệt trong tâm trí chúng tôi vì chúng tôi coi chuyện đó là chuyện tự nhiên, như là chuyện người trong gia đình mình bị hoạn nạn và mình có bổn phận giúp đỡ mà không phải suy nghĩ đắn đo.
Hồi Hương Việt Kiều Tị Nạn Từ Campuchia 1970
Suy tôn lãnh tụ là chuyện không xảy ra trong nền giáo dục VNCH.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, khi tôi còn học tiểu học, chương trình phát thanh thường phát thanh bài hát ca ngợi Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng chuyện đó không xảy ra trong học đường.
Ngoài chuyện mang báo đến các trường bạn, ban đại diện trường còn phải tiếp đón trả lễ khi các đại diện trường bạn đến. Đó là dịp chúng tôi tiếp xúc và làm quen các nữ sinh trường bạn.
Các hoạt động học sinh và ban đại diện cho chúng tôi cơ hội hiểu biết và thực hiện thể chế tự do dân chủ. Nền giáo dục VNCH đào tạo những công dân yêu chuộng tự do dân chủ qua những hoạt động học đường và bầu cử ban đại diện học sinh.
C. Liên hệ giữa thầy cô và học sinh dựa vào căn bản đạo đức và không hề có những vụ tai tiếng :
Trong suốt thời gian sống dưới thời VNCH, tôi không hề nghe hoặc đọc về một vụ tai tiếng nào trong ngành giáo dục, liên hệ đến thầy cô, tiểu học hay trung học.
Theo trí nhớ tôi, tôi không hề biết đến tai tiếng tình dục, sách nhiễu hoặc gây khó dễ, đánh nhau, tranh giành, hối lộ, đút lót, gian lận thi cử, yếu kém khả năng, hoặc bất cứ chuyện gì vi phạm đến đạo đức, luân lý, hoặc thuần phong mỹ tục.
Vì là trường nam, chuyện sách nhiễu tình dục đương nhiên không xảy ra. Cùng lắm là có vài anh chàng "thầm yêu trộm nhớ" cô giáo trẻ đẹp nào đó. Tôi không rõ các trường nữ thế nào, chắc cũng có những mối tình câm như vậy, nhưng tuyệt nhiên tôi không hề biết hoặc nghe đến một vụ sách nhiễu tình dục nào.
Nữ sinh lớp đệ nhị A năm học 1967-1968 Trường Thoại ngọc Hầu - Long Xuyên chụp ảnh lưu niệm với thầy Hiệu trưởng Vơ Vĩnh Khiêm và thầy Giám học Lê Tấn Kiệt.
Trên trung học, lớp công dân giáo dục tiếp tục cho tới hết trung học đệ nhất cấp. Chương trình học bao gồm những đề tài về đạo đức luân lý, và nghĩa vụ người công dân với xã hội, quốc gia, và tổ quốc.
Phụ huynh tham dự rất ít trong việc giao du với thầy cô, có lẽ vì tránh né những "áp lực" không thích hợp hoặc vì không cần thiết vì ít khi có những chuyện phải cần đến phụ huynh dính líu.
Theo tôi biết, lương lậu thầy cô không cao lắm và chỉ đủ sống. Trong suốt hơn mười năm mài đũng quần ở tiểu học và trung học trong thời VNCH, tôi chưa hề nghe thầy cô nào than vãn về cuộc sống hoặc lương lậu.
Nhưng tôi biết đa số thầy cô có cuộc sống đạm bạc qua nhà cửa, quần áo họ mặc và xe cộ họ đi. Đa số thầy cô ăn mặc đơn giản nhưng đứng đắn. Các thầy thường mặc áo sơ mi và quần tây. Có vài người thỉnh thoảng thắt cà vạt hoặc mặc áo vét.
Đa số thầy cô đi xe đạp, xe solex, xe Honda dame, Honda 90. Có vài người đi xe buýt hoặc xích lô. Trong suốt trung học, chỉ có một hai thầy lái xe hơi đi dạy.
Có vài thầy cô mở lớp dạy kèm học sinh, nhưng luôn luôn là trong dịp hè, và học phí phải chăng. Các thầy cô đó thường không dạy khóa sau, nên không có chuyện học sinh bị áp lực đi học để được nâng đỡ sau này.
Một trong những lý do các thầy cô không mở lớp dạy kèm học sinh trong lớp là có những trường tư dạy hè, hoặc nhiều sinh viên học sinh nhận dạy kèm tư gia.
Tôi cũng đã từng dạy kèm tư gia cho các em học sinh để phụ thêm vào chi phí gia đình. Có thầy mở lớp dạy kèm, nhưng nhận đủ mọi học sinh khắp nơi chứ không phải chỉ dành cho học sinh trong lớp hoặc trong trường.
Những lớp dạy kèm này thường đông nghẹt học trò, nhất là các lớp Toán Lý Hóa luyện thi Tú Tài I và II.
Chuyện biếu xén, quà cáp, phong bì cho thầy cô hoàn toàn không có, cho dù là cuối năm hoặc vào các dịp lễ như Tết Nguyên Đán.
Nên nhớ dưới thời VNCH, tệ trạng tham nhũng cũng có nhiều, nhưng phần lớn là trong quân đội.
Ngành giáo dục như thể được cô lập tách ra chuyện tham nhũng.
Ngày 20.11. 2018, dân mạng la ó vang trời về cái cách thầy giáo khúm núm bắt tay TT NXP khi ông ấy về thăm trường cũ…
Nào là “không có nhân cách làm thầy”, nào là “bản chất nịnh bợ”…; nghe, tủi buồn với đau đớn, xót xa…
Trước hết, xin nhấn mạnh là chẳng bao giờ tôi đồng ư với kiểu bắt tay như thế nhưng tôi nghĩ, cộng đồng có thể hiểu và thông cảm được.
Sẽ có những sinh viên từng học với tôi minh chứng rằng, một trong những điều đầu tiên tôi dạy SV là :
“Các em đừng có nghe người ta nói măi về sự cần thiết phải “khiêm tốn” theo kiểu Chị Dậu vào nhà Nghị Quế mà phải thể hiện như Hoa Hậu “ghé thăm” Hà Mỹ Nhân (là tôi, biệt danh SV gọi theo tên một nhân vật hài của Hoài Linh).
Chẳng qua có những người thích lừa các em phải phục tùng, cam chịu nên suốt ngày ra rả ‘nhất tự vi sư’, ‘tin tưởng tuyệt đối sự lănh đạo sáng suốt ”…
Phải hơi kiêu hănh, kiêu ngạo một chút ; chẳng hạn, trước khi tin tôi, các em hăy nghi ngờ…
Phải ngẩng cao đầu, ưỡn ngực lên – không có ngực cũng phải ưỡn lên!
Tôi sẽ không tha thứ bất kỳ SV nào khúm núm trước mặt tôi, đưa cả 2 tay ra để bắt tay tôi; bởi v́, khi đưa cả 2 tay, bạn chẳng thể nào đứng thẳng được”…
Tôi c̣n tiếp rằng :
“ Khi bắt tay phải nh́n thẳng vào mắt người ḿnh bắt tay để tỏ ư quan tâm, tôn trọng (stairing); phải nắm chặt vừa đủ (firmly) nhưng không được phép làm đau người khác; phải dứt khoát (brieftly) chứ không phải thấy tay tôi đẹp, thơm rồi cứ thế cầm mà lắc măi, lắc hoài; không được bắt tay hững hờ, vô cảm như “con cá chết’ (like a dead fish), bắt tay người này nhưng lại liếc t́m lănh đạo nào đó mà ḿnh có thể chưa chào”…
Xin hỏi các bạn :
Chê thầy giáo ấy nhưng sao chẳng thấy ai chê ông NXP ? Về ứng xử, ông NXP chưa đạt đến “ tŕnh ” của một chính khách tài năng.
Hăy xem cách B. Obama bắt tay một đứa bé :
Obama ngồi hẳn xuống cho ngang bằng với… “tầm” của đứa trẻ ấy!
Ông NXP bắt tay người cựu binh già – một vị tướng tóc bạc phơ:
lẽ ra khi thấy cựu binh đưa cả 2 tay th́ ông ta cũng phải đưa tiếp tay c̣n lại ra để nắm lấy. Thế mới hợp lẽ…
Tương tự, khi thấy thầy giáo cũ đưa hai tay, sao ông ta không đưa một tay ra đỡ cho thầy đứng thẳng?…
Chúng ta khâm phục cách bắt tay tự tin, bản lĩnh của một cô giáo miền Nam trước năm 1975 – khi đón TT Mỹ R. Nixon.
Nể phục TT Mỹ đă hơi khom xuống để bày tỏ sự kính trọng với Cô Giáo bé nhỏ đó !
Đó là kết quả của một NỀN GIÁO DỤC NHÂN BẢN, dù là Mỹ hay VNCH !
Các cô thầy ngày nay dường như đă “quên” dạy lũ trẻ phải bắt tay như thế nào ?!
Chúng ta trách thầy giáo trường cũ của TT, trong khi thực sự chúng ta không nhớ ra là nền giáo dục XHCN đă dạy cho con người phải quên cái tôi là… NGƯỜI(!), luôn dạy lănh tụ như thần linh, lănh đạo luôn là mặt trời nên từ thế hệ này đến thế hệ khác, thấy bóng dáng của quyền lực là run rẩy ngay từ trong tâm thức, thấy ḿnh thấp bé ngay từ trong máu thịt…
Và rồi, thầy cô cũng chỉ là “sản phẩm” đáng thương của nền giáo dục sai be bét ấy, vậy thôi!…
VIỆC BIÊN SOẠN VÀ XỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA THỜI VIỆT NAM CỘNG H̉A
VIỆC BIÊN SOẠN VÀ XỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA THỜI VIỆT NAM CỘNG H̉A
Có một so sánh chưa hẳn đă hoàn toàn chính xác nhưng cũng không đến nỗi khập khễnh, đó là, nếu nhà nông ra đồng làm việc cần con trâu, cái cày th́ thầy/cô vào lớp dạy học cần phải có sách giáo khoa.
Đương nhiên, có những giáo sư văn chương “tay vo” vào lớp, nói thao thao bất tuyệt và học sinh/sinh viên ngồi nghe mê mẩn,nhưng để cho sinh viên/học sinh ghi nhớ lâu dài, cần phải có sách giáo khoa.
Trước t́nh trạng biên soạn sách giáo khoa ngày càng nhếch nhác từ nhiều năm nay ở Việt Nam, thử nh́n lại vấn đề này vào giai đoạn trước 1975…
Bộ Giáo dục không hề can thiệp việc biên soạn sách giáo khoa
Nền giáo dục thời Việt Nam Cộng Ḥa có một triết lư, dựa vào ba nguyên tắc :
Dân Tộc, Nhân, Bản và Khai Phóng.
Dựa trên triết lư đó, Bộ Quốc Gia Giáo Dục đưa ra những chỉ thị chung, quy định về chương tŕnh cho từng lớp học, môn học. Rồi dựa vào những chỉ thị chung và chương tŕnh đó, các soạn giả soạn sách giáo khoa.
Như vậy, điều xác minh đầu tiên là, không chỉ có một bộ sách giáo khoa dùng cho tất cả mọi trường trên toàn quốc.
Có nghĩa là về sách giáo khoa, chính phủ và Bộ Quốc Gia Giáo Dục không áp đặt. Như thế cũng có nghĩa là không có vấn đề “chạy chọt” để bộ sách của ḿnh thành sách giáo khoa chính thức trên toàn quốc.
GIÁO DỤC THỜI XĂ HỘI CHŨ NGHĨA VIỆT NAM
Dù vậy, vào những năm đầu nền Đệ nhất Cộng ḥa (1955-1965,) Bộ Quốc Gia Giáo Dục đă phát hành Tiểu học Nguyệt San. Nguyệt san này phát hành hằng tháng, “cung cấp tài liệu giảng dạy cho giáo viên, gồm đủ các môn học thuộc chương tŕnh bậc Tiểu học…
Bộ biên tập ghi :
Chủ bút :
Ông Giám đốc Nha Tiểu học (không ghi rơ họ tên)
Phụ tá Chủ bút :
- Ông Đặng Duy Chiểu, Thanh tra Tiểu học Trung ương
Nha Tiểu học :
Tổng thư kư :
- Ông Đinh Gia Dzu
Pḥng Học chế Nha Tiểu học Thư kư :
- Bà Trần Thị Mẹo
Pḥng Thanh tra Nha Tiểu học…
Ở mỗi số Tiểu học nguyệt san, trước khi vào phần giáo khoa dạy các bài học theo chương tŕnh của bộ, đều có các phần :
- Luận thuyết, Tạp trở (đăng thông tin…)
- Văn uyển (đăng thơ, văn dịch)
- Nghị định (đăng các nghị định, công văn liên quan ngành giáo dục).
Phần giáo khoa được sự cộng tác thường xuyên của đông đảo giáo viên, trong đó có một số người được nhiều người biết như :
- Hà Mai Anh
- Thềm Văn Đắt
- Nguyễn An Khương
- Nguyễn Tất Lâm
- Văn Công Lầu
- Vương Pển Liêm…” (*)
(*) Chương tŕnh giáo dục và sách giáo khoa thời Việt Nam Cộng Ḥa – tác giả Trần Văn Chánh
AI CÓ THỂ VIẾT SÁCH GIÁO KHOA ?
Các nhà xuất bản t́m các soạn giả, thường là các giáo chức có uy tín, xin họ soạn sách giáo khoa bậc tiểu học và trung học rồi xuất bản và phát hành.
Cũng có những soạn giả tự soạn sách giáo khoa, rồi sau đó t́m các nhà xuất bản xin họ xuất bản và phát hành, có thể bán đứt bản quyền.
Sách in xong, nhà xuất bản t́m cách biếu các trường học.
Nhà trường có ban tu thư, hoặc ít ra là một vị phụ trách về sách giáo khoa, xem xét tất cả các sách được gửi tặng hoặc t́m được, cân nhắc để chọn lấy một bộ sách cho học sinh trong trường. Giáo viên dùng bộ sách ấy mà giảng dạy.
Ba môn quan trọng ở bậc Tiểu học cần có sách giáo khoa mà các nhà xuất bản lưu tâm là Quốc Văn/Việt Văn, Công Dân Giáo Dục và Sử Địa.
Cũng có một số sách giáo khoa về môn Toán .
Một số tác giả uy tín đă soạn nhiều quyển sách giáo khoa rất hay, là những nhà giáo Đặng Duy Chiểu, Hà Mai Anh, Hoàng Thế Mỹ, Bảo Vân (Bùi Văn Bảo)… Các soạn giả và các nhà xuất bản hầu hết đều ở Sài G̣n.
Ở bậc Trung học, việc sử dụng sách giáo khoa thường lại do quyết định của từng giáo sư (**) .
(**) Thời Việt Nam Cộng Ḥa, giáo chức dạy Trung học đều được gọi là “Giáo sư”.
Nếu muốn gọi cho rơ, người ta gọi là “Giáo sư Trung học” để phân biệt với “ Giáo sư Đại học ”
Có vị tự soạn sách giáo khoa và dùng sách ấy để dạy học sinh.
“Sách giáo khoa” này không in thành sách theo lối in “typo” hay sau này theo lối “offset” mà in bằng phương pháp “quay roneo” trên một khổ giấy dài như khổ 8.5×14 bây giờ.
Giáo sư tự phân phối cho học sinh trong lớp ḿnh dạy hay gửi trong thư quán nhà trường để học sinh mua với một giá nhẹ nhàng hơn sách giáo khoa được các nhà xuất bản ấn loát và phát hành.
Cũng có những giáo sư có sách do nhà xuất bản phát hành và dùng sách ấy giảng dạy học sinh.
Nhiều vị khác không có sách giáo khoa “quay roneo” hay do nhà xuất bản ấn loát, các vị này chọn lấy một cuốn sách của nhà xuất bản nào đó mà ông/bà ưng ư nhất để theo đó giảng dạy và dặn học sinh mua sách ấy mà học.
Riêng môn Toán, nhiều giáo sư c̣n dùng bộ sách Toán của Bossuet (Abbé Bossuet – Court de Mathématiques.) Bộ sách ấy có nhiều bài toán khó, nhưng giải được th́ rất lấy làm thú vị.
Nhiều giáo sư môn Anh văn dùng cuốn “L’Anglais Vivant” là sách dành cho học sinh Pháp học tiếng Anh.
Nghĩ cũng vui v́ thời tôi học lớp đệ Thất (1960) chưa có mấy soạn giả soạn sách giáo khoa Anh văn, trừ sách và từ điển của hai ông Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh.
Sách nhiều, kiến thức nhiều, sự học càng đa dạng và phong phú
Sách Việt văn/Quốc Văn th́ rất nhiều. Ở Sài G̣n thời ấy có những giáo sư Quốc Văn rất nổi tiếng, thí dụ bộ ba :
Bộ ba này “trấn ngự” trường trung học Trường Sơn tọa lạc trên đường Lê Văn Duyệt.
Học sinh vào học trường này phần lớn v́ muốn được nghe ba vị này giảng dạy.
Giáo sư Lữ Hồ cũng là một giáo sư Việt Văn nổi tiếng. Tôi không nhớ rơ nhưng chắc những vị này đều có soạn sách giáo khoa Việt văn. Nhà giáo, học giả Phạm Thế Ngũ soạn bộ sách
- “Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên” là cuốn sách tham khảo gối đầu giường cho cả giáo sư lẫn học sinh… Trường Công giáo rất chuộng và kính trọng các giáo sư Nguyễn Duy Diễn, Trần Bằng Phong, Đồng Tuy.
Năm 1974, Bộ Quốc Gia Giáo Dục quyết định đưa môn Quốc văn lên dạy cả trên lớp Mười Hai. Trước đó, lớp Mười Hai chỉ học Triết chứ không c̣n học Quốc văn nữa.
Các soạn giả và nhà xuất bản đua nhau soạn, in, xuất bản, phát hành sách giáo khoa Quốc văn lớp Mười Hai. Tôi không nhớ rơ tên của từng bộ sách, nhưng nói chung là “Quốc Văn Lớp Mười Hai”. Tôi cũng tham gia việc soạn sách này.
Thầy tôi là giáo sư Trần Bằng Phong quy tụ một nhóm giáo sư Quốc Văn để soạn bộ sách Quốc Văn Lớp Mười Hai do nhà sách Khai Trí xuất bản. Sách in xong, thầy tôi chọn một bản quư, trịnh trọng đề :
“ Bản của đồng nghiệp Quyên Di Bùi Văn Chúc .”
Tôi vừa cảm động vừa cảm phục thầy tôi. Nhóm soạn giả ấy, ngoài thầy tôi c̣n có giáo sư Phạm Biển Thước cũng đă quá văng. Những vị khác, tôi không nhớ tên.
Một số trường trung học lớn thành lập ban tu thư và các giáo sư của từng môn hợp tác soạn thảo tài liệu giáo khoa để cả trường dùng chung. Tôi nhớ vào khoảng năm 1973-1974, trung học Nguyễn Bá Ṭng Sài G̣n (bây giờ là Trường cấp ba Bùi Thị Xuân) thành lập ban tu thư để soạn sách giáo khoa cho bốn môn:
- Quốc Văn, Công Dân Giáo Dục, Sinh Hoạt Học Đường (và h́nh như Sử Địa.)
Tôi hân hạnh được linh mục Giám học Vũ Viết Hà mời làm điều hợp viên của ban tu thư này. Sách giáo khoa bậc Trung học đa dạng hơn sách giáo khoa bậc Tiểu học rất nhiều.
NHỮNG VỊ THẦY ĐÁNG KÍNH VIẾT SÁCH GIÁO KHOA
Triết học có những sách của hai linh mục Trần Văn Hiến Minh và Trần Đức Huynh do nhà Đường Sáng xuất bản và phát hành, một bộ ba cuốn:
- Luận lư học, Đạo đức học và Tâm lư học.
Linh mục Trần Đức Huynh là giáo sư Triết nổi tiếng trong giới Công giáo. Linh mục Trần Văn Hiến Minh cũng thế. Ông c̣n là giáo sư Triết uy tín của trường trung học Chu Văn An.
Giáo sư Trần Bích Lan (nhà thơ Nguyên Sa) “trấn ngự”trường trung học Văn Học tọa lạc trên đường Phan Thanh Giản. Học sinh theo học rất đông.
Ông soạn những sách giáo khoa Triết học nào tôi không nhớ tên nhưng chắc chắn là có.
Vĩnh Để cũng là một giáo sư Triết nổi tiếng và có sách giáo khoa riêng.
Các môn Toán (Đại số, H́nh học, H́nh học không gian, Lượng giác, Tân toán học…). Lư Hóa, Vạn Vật, và sau này, Anh văn, Pháp văn đều có vô số sách giáo khoa.
Thời Việt Nam Cộng Ḥa, các trường Đại học có tính cách độc lập, chính quyền không xen vào việc điều hành nhà trường, việc giảng dạy và việc dùng sách giáo khoa.
Đại học Y khoa, Dược khoa c̣n dùng một số sách giáo khoa của Pháp.
Ở các đại học khác, các giáo sư thường thường có “course” riêng, cũng với h́nh thức “quay roneo”.
Có những anh sinh viên chăm học, khi đi học th́ ghi chú rất cặn kẽ, chi tiết. Qua năm học, anh ấy đánh máy lại tập ghi chú của ḿnh, “quay roneo,” [/b]bán cho các sinh viên học cũng môn ấy, giáo sư ấy vào những năm sau, cũng thu được kha khá.
Ở Đại học Văn khoa, giáo sư Nguyễn Văn Trung dạy môn Triết học Tây phương. Ông soạn cuốn “Ca Tụng Thân Xác” và dùng làm tài liệu giáo khoa để giảng dạy.
Giáo sư Linh mục Thanh Lăng, trưởng ban Việt Văn, soạn bộ sách “Bảng Lược Đồ Văn Học Việt Nam” khá đồ sộ.
Đó là bộ sách sách khoa căn bản cho những sinh viên học ngành Văn Chương Quốc Âm.
Giáo sư Bửu Lịch, trưởng ban Xă Hội, soạn bộ sách “Thân Tộc Học” đồ sộ, rất khó hiểu; khi đọc phải cầm trí. Khi giáo sư giảng cho sinh viên mà tài liệu là bộ sách giáo khoa này, sinh viên lại càng phải cầm trí mới hiểu được.
Giáo sư Linh mục triết gia Kim Định là một trường hợp đặc biệt.
Ông bênh vực triết học Việt Nam hết ḿnh. Nho giáo, ông cũng gọi là Việt Nho. Ông bắt đầu giáo tŕnh giảng dạy sinh viên môn Triết học Đông phương với cuốn sách giáo khoa Triết Lư Cái Đ́nh. Sau đó là Cửa Khổng, Chữ Thời, Việt Lư Tố Nguyên…
Cho đến nay, bộ sách giáo khoa của ông vẫn là bộ sách giá trị và uy tín bậc nhất về Triết Việt. Các giáo sư Đại học Luật khoa, Khoa học… đều có sách giáo khoa của riêng ḿnh…
*****
Bài viết này không có tính cách khảo cứu và hàn lâm.Đây chỉ là sự ghi lại theo trí nhớ của một người từng là học sinh tiểu học, học sinh trung học và sinh viên đại học của nguyên cả giai đoạn có một quốc gia mang tên Việt Nam Cộng Ḥa.
Lạ là chuyện đi xe đạp và sửa xe rất Việt Nam. Cái đuôi vn trên địa chỉ chẳng lẽ không phải là trang web của Việt Nam mà là của nước lạ nào?
Tôi truy cập theo đúng địa chỉ trên đề thi th́ trang này bị khoá hoặc không tồn tại.
T́m từ khoá “Khóc giùm” th́ chỉ thấy trên một số trang nhảm tiếng Việt có câu chuyện tương tự.
Nhưng tất cả đều là “Khóc giùm” chứ không có “giúp bạn ấy khóc”.
“Khóc giùm” hiển nhiên khác nghĩa với “giúp bạn ấy khóc” .
“Khóc giùm” nằm trong trường nghĩa với “khóc mướn”, tức chính ḿnh khóc thay người khác, nhưng khác khóc mướn v́ đă “giùm” th́ miễn phí.
C̣n “giúp bạn ấy khóc” là ḿnh không khóc mà giúp cho người khác khóc do người ấy không khóc được.
Tôi lần ḍ ra người làm đề và hỏi :
- “ Có phân biệt được nghĩa của “khóc giùm”với “giúp bạn ấy khóc” không ?” Người ra đề ngơ ngác.
Tôi bảo :
- Bọn teen chế ra chuyện “khóc giùm” là có nghĩa, dù nhảm nhí nhưng chọc vui.
C̣n “giúp bạn ấy khóc” th́ chẳng có nghĩa ǵ cả, trừ phi “bạn ấy” bị hỏng cổ họng không khóc được phải nhờ người móc họng cho. Đă “phỏng” th́ phỏng cho có lư chứ ạ ?”
Người ra đề càng không hiểu ǵ, chỉ nói cho có :
- “ Em thấy nghĩa giống nhau mà ”.
Tôi hỏi :
- “ Em học lớp mấy ?”
Người ra đề trả lời :
- “Sở của em yêu cầu người ra đề học sinh giỏi phải có tŕnh độ thạc sỹ, tiến sỹ anh ạ!”
Tôi nhắc :
- “Anh hỏi em học lớp mấy cơ ?”
Người ra đề hỏi lại :
- “Tiến sỹ là lớp mấy vậy anh ?”
Tôi bật cười :
- “ Người ta đồn ở xứ ngàn năm văn vật này chỉ cần học qua lớp ba, tức biết đọc biết viết, là có thể làm tiến sỹ”.
Bất ngờ người ra đề reo lên :
- “Em đọc thông viết thạo rồi đó anh. Ngày xưa cả nhà em làm nghề khóc mướn đám ma. Em khóc cả đêm rồi lẽo đẽo theo đám ma hàng cây số, khóc hết nước mắt nhưng tiền công không đủ ăn tô bún.
Nghe thành phố ra chỉ tiêu công dân thủ đô phải có bằng thạc sĩ, tiến sĩ, em đăng kư học vượt từ lớp ba lên tiến sĩ luôn ! Hiển nhiên là tiến sĩ văn, v́ em nghe nói văn chương cũng là nghề than vay khóc mướn.
Em dạy văn nổi tiếng thành phố đấy nhé ! Cứ đọc đến đoạn văn xúc động là em khóc như khóc đám ma, ai dự giờ cũng khen em dạy văn truyền cảm.
Nghề dạy văn khóc ít nhưng tiền nhiều hơn khóc mướn đám ma, nên em bám luôn.
Đó là lư do em đưa luôn nghề khóc mướn truyền thống của làng em vào đề văn cho nó giàu đạo lư uống nước nhớ nguồn!”
Ra thế ! Người ra đề thi học giỏi môn Ngữ văn của Sở Dục thủ đô ngàn năm văn hiến là tiến sĩ gốc làm nghề khóc mướn.
Khi làm nghề giáo th́ chị ta c̣n thêm kỹ năng giúp người khác khóc. Khóc mướn, khóc thay, và cả giúp cho người khác khóc, không phải là đặc sản ngàn năm văn hiến ư ?
Văn chương càng ngày càng nhân đạo sụt sùi vậy đấy !
Chu Mộng Long
——
Đố các bạn, bài văn trên của tôi đạt bao nhiêu điểm ?
GIÁO DỤC NHỒI SỌ VÀ TUYÊN TRUYỀN DỐI TRÁ, THÀNH TR̀ VỮNG CHẮC CỦA CS
GIÁO DỤC NHỒI SỌ VÀ TUYÊN TRUYỀN DỐI TRÁ, THÀNH TR̀ VỮNG CHẮC CỦA CS
Giáo dục nhồi sọ là tạo ra các thế hệ thiếu tư duy độc lập nên khả năng kiểm chứng nguồn tin kém nên dễ tin vào những tin tức muồi tai thay v́ tin vào những tin tức khả tín.
Tuyên truyền dối trá là cách dẫn dắt người dân đi vào con đường giả dối nhằm trục lợi.
Giáo dục nhồi sọ kết hợp với tuyên truyền dối trá là một cặp không thể thiếu nhau. V́ muốn xỏ mũi dắt một dân tộc theo định hướng dễ dàng th́ trước tiên phải đâm mù đôi mắt họ.
Ở đây ư muốn nói là “đôi mắt của trí tuệ”.
Một học sinh chỉ ngoài 10 tuổi mà được lớn lên trong nền giáo dục nhân bản th́ nó dễ dàng nhận ra sự phi lí của tṛ dối tuyên truyền.
Tuy nhiên điều dễ dàng ấy đôi khi đối với người trưởng thành ở Việt Nam là rào cản không thể vượt qua.
Hăy xem những người trưởng thành ông tiến sĩ Trần Đăng Trung giảng viên khoa Ngữ Văn – Đại Học Khoa Học Xă Hội và Nhân Văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, hay ông GS Hoàng Chí Bảo thuộc Hội Đồng Lư Luận Trung Ương vv... th́ họ vẫn đă có tư duy độc lập đâu ?
Đối với xă hội tiến bộ th́ những con người này là nhân tố độc hại, nhưng đối với CS th́ họ là những người có ích cho chế độ.
Dưới chế độ này, những người như Trần Đăng Trung, Hoàng Chí Bảo là những người đang miệt mài chọc mù ḷa trí tuệ của thế hệ trẻ.
Trước đây nghe tuyên truyền người ta yêu ông quư Hồ, th́ ngày nay cũng nhờ tuyên truyền mà người ta quư ông Trọng.
Trước đây ông Hồ tự xưng là “Cha Già Dân Tộc” và được rất nhiều thế hệ tin yêu, th́ ngày nay ông Nguyễn Phú Trọng tự xưng là “Anh Cả” th́ cũng được người Việt thời đại 4.0 này thừa nhận.
Nền tảng dân trí của xă hội Việt Nam vẫn chưa thay đổi đáng kể từ thời ông Hồ Chí Minh.
Hiện nay ĐCS dùng công thức “giáo dục nhồi sọ + tuyên truyền dối trá” xưa cũ mà vẫn kiểm soát xă hội này tốt th́ đó là điều đáng buồn.
Việc chống tham nhũng của ông Trọng là một công việc dă tràng không hiệu quả . Thực tế là ông ta đang bứng kẻ tham nhũng này đi và trồng vào đó kẻ tham nhũng khác.
Thể chế chính trị mà CS đang dùng nó như một nền đất chứa đầy độc tố, dù anh bứng cây nào đi và trồng cây khác vào th́ nó cũng cho ra trái độc mà thôi.
Thể chế này nó tạo ra những con người tham nhũng và xa hơn, nó tạo nên những nhóm tham nhũng sống cộng sinh mà người dân hay gọi là nhóm lợi ích.
Chống tham nhũng dựa trên nền tảng thể chế chính trị này th́ chẳng khác nào công việc “ tát cạn biển Đông ”.
Thực chất của công việc chống tham nhũng của ông Trọng là thanh trừng chứ không có ư nghĩa ǵ khác, tuy nhiên số đông vẫn không tin như vậy.
V́ thiếu tư duy độc lập nên người dân tin vào tuyên truyền của chính quyền hơn là suy xét bản chất vấn đề.
Giáo dục nhồi sọ sinh ra
tư duy nô lệ, mà bản chất nô lệ là không biết kén chọn ǵ cả, người ta cho ǵ ăn nấy.
Người ta quẳng cho mẩu tin bịa đặt nào th́ đă vội mang nó nhét vào đầu mà không hề biết bóc tách hay phẩu thuật mẩu tin đó xem bên trong nó có ǵ ?! Và từ đó dẫn tới hiện tượng cả xă hội bị tin giả dắt mũi .
Thực tế đă cho thấy rằng, dân Việt là dân tộc dễ bị lạc vào mê cung fake news nhất so với các dân tộc khác trên thế giới.
Đấy là điều đáng buồn nhưng nó lại là sự thành công ngoài mong đợi của ĐCS.
Công thức “giáo dục nhồi sọ + tuyên truyền dối trá” là thành tŕ khá vững chắc, ngày nay có Internet nhưng người Việt cũng chưa thể phá bỏ được thành tŕ đó.
Tại sao ?
Khi nào người Việt chưa có công thức phá bỏ được thành tŕ đó th́ khi đó độc tài CS c̣n vững.
Tui nhớ lại cái thời từ Tiểu học đến Trung học thường có những bài dạy về công dân giáo dục .
Lúc lớp đệ thất đă học về văn chương của các nhà thơ ( môn giảng văn ) các nhà thơ xưa và nay . Hầu như các môn học không dính dáng ǵ về chính trị trong đó . Cho đến lớp nhị và đệ nhất mới bắt đầu học về lịch sử thế giới cho học sinh có quan niệm t́m hiểu thêm về kinh tế các nước
__________________
LOÀI KHỈ TRỞ THÀNH LOÀI NGƯỜI MẤT TRIỆU NĂM
LOÀI NGƯỜI MUỐN TRỞ THÀNH LOÀI KHỈ TRƯỜNG SƠN HĂY GIA NHẬP ĐẢNG CS VN
HĂy CÓ Ư THỨC HỆ TỰ HỎI " TÔI ĐĂ LÀM G̀ CHO TỔ QUỐC , ĐỪNG HỎI TỔ QUỐC ĐĂ LÀM G̀ CHO TÔI
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.