Mỹ hôm nay thiên hạ mừng Lễ Tạ Ơn, nhưng rất nhiều người không hề nghĩ đến nguồn gốc thuyền nhân vượt biển, chạy trốn đàn áp của cha ông ḿnh. Không biết vài trăm năm nữa con cháu người Việt hải ngoại có vậy không...
Khi chiếc Mayflower thả neo xuống Plymouth th́ vùng đất này đă có thổ dân sinh sống từ hàng ngàn năm trước. Họ là người Wampanoag, được thêu dệt vào huyền thoại “Buổi Tiệc Thanksgiving Đầu Tiên” mà ta thường nghe kể.
Lănh thổ các bộ lạc người Wampanoag vùng ngày nay thuộc tiếu bang Massachusetts (nguồn: Internet) Theo những nhà khảo cổ th́ các giống dân da đỏ ở Bắc Mỹ đă di cư từ Á Châu sang đây khoảng 10,000 đến 12,000 năm trước; họ đi bộ qua eo biển Bering lúc đó vẫn c̣n đóng băng. Người Wampanoag là một sắc tộc nói tiếng Algonquin định cư tại vùng Đông Bắc, từng có đến 67 bộ lạc với dân số gần 50,000 người. Mỗi bộ lạc có một người tù trưởng đứng đầu; các bộ lạc liên hiệp với nhau thành một cộng đồng lớn. Họ bầu lên một thủ lănh tối cao gọi là “Sachem”, tiếng Anh dịch là “King”. (Có thể nào Bách Việt của ta ngày xưa cũng có cấu trúc tương tự?)
Tháng 11 năm 1620 chiếc tàu Mayflower chở thuyền nhân tị nạn tiến vào vùng vịnh Rhode Islands. Họ đậu thuyền ngoài cửa biển gần Provincetown ngày nay và án binh bất động. Sang tháng 12 một nhóm người mang súng đạn lên bờ thám hiểm t́m chỗ định cư. Họ đặt chân lên đất liền tại Plymouth. Nơi đây họ phát hiện những cánh đồng đă được gặt hái, gần đó có suối nước ngọt, nhưng không thấy cư dân đâu cả. T́m được thực phẩm được ai chôn sẵn, họ đào nó lên và mang đi. Đó là thực phẩm của người Wampanoag để dành cho mùa ấm; cứ đến mùa Đông th́ họ rút sâu vào nội địa để tránh lạnh. Vài ngày sau, chiếc Mayflower thả neo xuống Plymouth; cuộc định cư đầu tiên của người Âu Châu tại Bắc Mỹ bắt đầu.
Ấp trại Plimoth
Sang tháng 3, 1621, tức hết mùa lạnh, người di dân mới tiếp xúc với thổ dân. Một trong những người đầu tiên họ gặp là Squanto, thuộc bộ lạc Pawtuxet, biết nói tiếng Anh. Số là năm 1614 Squanto bị nhà thám hiểm John Smith bắt cùng một số thổ dân khác mang về Âu Châu bán làm nô lệ. Không ngờ Squanto được giải cứu bởi một nhà ḍng và vài năm sau t́m cách quay về Bắc Mỹ. Nhưng khi anh ta trở lại th́ bộ lạc của anh ta đă chết sạch v́ một bệnh dịch bí ẩn mà sau này được biết là Yellow Fever do người da trắng mang đến. Đó cũng là lư do người Wampanoag không muốn tiếp xúc với thuyền nhân trên chiếc Mayflower cả mấy tháng trời — họ sợ bị lây bệnh.
Sau khi biết chắc những người da trắng không mắc bệnh và không có ư định gây hấn, tù trưởng Wampanoag là Massasoit đến gặp lănh đạo người Anh. Hai bên nói chuyện và trao đổi một số vật phẩm tượng trưng, trong đó có thuốc hút và ống điếu của người da đỏ. Ngày 1/4/1621 họ kư kết một hiệp ước hoà b́nh mà sử sách gọi là Peace Treaty 1621. Nội dung bản hoà ước này đại ư nói họ sẽ không tấn công lẫn nhau, và bên này sẽ giúp bên kia tự vệ nếu bị tấn công bởi một lực lượng thứ ba. Trên thực tế lúc đó cả hai đều cần nhau. Người Anh có súng đạn nhưng lạ nước lạ cái. Người Wampanoag th́ đang phải đối phó với một bộ lạc thù địch nên cũng muốn có chỗ dựa lưng. Họ đă từng gặp dân Âu Châu trước đó nhiều lần (kể cả người Vikings thuở xa xưa) nên không lạ ǵ hoả lực của người da trắng. Nói tóm lại, đây là một thoả thuận tự vệ cho đôi bên.
Sachem Massasoit mời John Carver điếu cày hữu nghị
Thời gian đầu Squanto dạy cho người Anh cách trồng bắp để có thức ăn, và chỉ cho họ nơi nào tốt để săn bắn và câu cá. Sau mùa gặt đầu tiên, dân làng khao một bữa tiệc để tạ ơn Trời Đất. Huyền thoại “Buổi tiệc Thanksgiving Đầu Tiên” của người di dân bắt đầu từ đây. Edward Winslow, một người trong nhóm, chép lại rằng họ đă mời thổ dân đến cùng ăn tiệc, có thịt nai và chim rừng. Ông ta c̣n ghi xuống tên 52 người Anh có mặt hôm đó—họ là những người duy nhất sống sót trong số 101 người vượt biển trên chiếc Mayflower. Từ đó về sau, người dân Anh ở vùng “New England” này thường tổ chức một buổi tiệc tương tự hàng năm để nhớ ơn tiền nhân. Nhưng không nơi nào khác trên xứ Mỹ thời xưa có tập tục này.
Măi đến giữa thế kỷ 19 biên tập viên của một tạp chí phụ nữ, bà Sara Hale, t́nh cờ đọc được bút kư của Winslow và nảy ra sáng kiến giới thiệu tập quán này đến quần chúng. Để cho xôm tụ, bà ta chế ra một số thức ăn hiện đại hơn, trong đó có gà lôi. Đến thời Nội Chiến (1860-1865) tổng thống Abraham Lincoln quyết định biến Thanksgiving thành một ngày lễ quốc gia, với mục đích xoa dịu ḷng dân đang trải cuộc can qua. Lincoln cũng là người đặt tên cho những người di dân Anh đầu tiên ấy là “Pilgrims” — người đi hành hương. Trên thực tế họ chẳng hành hương ǵ cả; những người này thuộc một giáo phái cực đoan gọi là Puritan. V́ không muốn tuân theo lề luật của nhà nước Anh-Giáo nên họ đă t́m đường vượt biên. Mới đầu họ sang Hoà Lan tá túc một thời gian; sau khi gom góp đủ tiền họ bèn mua tàu Mayflower và tổ chức vượt biển. Dựa theo bản đồ của những nhà thám hiểm đi trước, họ nhắm hướng New York trực chỉ. Nhưng v́ bị băo đánh lạc hướng nên tàu của họ đă tấp vô vùng đất của người Wampanoag, địa danh ngày nay mang tên Cape Cod.
Nhưng theo lời kể của hậu duệ người Wampanoag hiện vẫn đang sống ở Massachusetts th́ tại buổi tiệc đó người da trắng đă bắn súng và bắn cà nông lên trời để ăn mừng. Nghe tiếng súng, một toán 90 chiến binh Wampanoag được phái đến thám thính xem người da trắng đang làm ǵ, bắn ai, có thổ dân nào bị bắt làm tù binh hay nô lệ hay không. Khi họ gặp người thông dịch viên và được giải thích rằng đám người kia chỉ đang ăn mừng mùa gặt, toán lính quyết định dựng trại gần đó ít bữa để canh chừng v́ họ từng có kinh nghiệm không tốt với dân da trắng. Trong những ngày kế tiếp họ phải săn nai quanh khu vực để có thức ăn, nhờ vậy mới gặp được nhóm người đi săn chim rừng, gà rừng mà Winslow đă ghi trong sổ tay. Người Anh lúc đầu hoàn toàn không có ư định mời người Wampanoag đến để cảm tạ như truyền thuyết kể. Tuy nhiên, sau khi gặp binh đoàn Wampanoag với những con nai béo tốt, họ đă mời đám thổ dân ở lại để “chung vui”. Từ đó ta có thể đoan chắc rằng “Buổi Tiệc Thanksgiving Đầu Tiên” có … thịt nai nướng!
Đồng $1 kỷ niệm Ḥa Ước 1621 giữa người Wampanoag và người Anh Cuộc vui nào cũng chóng tàn. Hiệp Ước Hoà B́nh (kư ngày April Fools) có hiệu lực được chừng 50 năm th́ xảy ra chiến tranh (1675-1676), sử Mỹ gọi là “King Philip’s War” — Philip là Sachem của người Wampanoag, con trai thứ của Massasoit. Vào thời điểm đó số dân da trắng vùng New England đă lên tới khoảng 80,000. Họ không c̣n thuần tuư là những người Puritan thời Massasoit nữa. Những người da trắng đến sau bắt đầu lấn chiếm đất của thổ dân mà Hiệp Ước 1621 đă không biết trước để ngăn cấm. Nhiều cuộc xung đột nhỏ đă xảy ra trước đó, nhưng khi chiến sự bùng nổ th́ mỗi bên đă phải đem cả chục ngàn quân binh ra trận.
Cuộc chiến khốc liệt kéo dài 14 tháng đă tàn phá 12 ngôi làng ở New England và tiêu diệt gần hết người Wampanoag. Ngày nay trong số 67 bộ lạc thuở ban đầu chỉ c̣n 3 bộ lạc tồn tại: Mashpee, Aquinnah và Mahommet. Họ ở quanh các vùng Martha’s Vineyard, Cape Cod, Rhode Islands hiện nay. Hàng năm đến mùa Thanksgiving người Wampanoag ở Massachusetts không làm gà lôi ăn mừng giống như người Mỹ. Họ làm lễ nhớ ơn vị vua hùng của họ: Sachem Massasoit.
Phiên An
Tượng “Great Sachem Massasoit”, dựng năm 1921 kỷ niệm 300 năm người Anh đổ bộ lên Plymouth Rock, Massachusetts.