Những tờ giấy màu trắng thường được gọi chung Fabric Softener dùng bỏ vào máy sấy để cho quần áo thơm tho, mềm mại hơn và không bị dính nhau lại, còn có nhiều công dụng khác nữa. Sau đây là những kinh nghiệm mà nhiều phụ nữ đã chia sẻ để chúng ta biết sử dụng Fabric Softener cho nhiều mục đích khác nhau :
1. Khi bạn đặt một miếng Fabric Softener ở gần nơi có kiến, chúng sẽ chạy đi hết.
2. Tránh được mùi hôi mốc bằng cách kẹp một miếng giấy Fabric Softener vào sách hay cuốn album lâu ngày không mở ra.
3. Vào mùa có nhiều muỗi, khi ra ngoài vườn sinh hoạt, bạn có thể đeo nơi thắt lưng một miếng Fabric Softener thì mấy chàng muỗi sẽ không thèm lại gần.
4. Dùng miếng Fabric Softener để lau những vết xà bông đóng ở cửa kính của bồn tắm.
5. Làm cho đồ ṿật hay áo quần thơm tho và tươi mát bằng cách đặt một tấm Fabric Softener trong mỗi hộc tủ hay treo trong closet.
6. Ðể tránh chỉ bị rối hãy dùng miếng Fabric Softener vuốt sợi chỉ đã xâu vào kim trước khi may.
7. Nếu không muốn vali đựng quần áo bị ẩm, hãy đặt một miếng Fabric Softener dưới đáy trước khi xếp hành lý mang theo.
8. Làm cho không khí trong xe hơi trong lành bằng cách đặt một miếng Fabric Softener dưới ghế ngồi.
9. Muốn rửa sạch những thức ăn dính chặt bên trong xoong nồi thì hãy đặt một miếng Fabric Softener vào trong xoong rồi ngâm nước qua đêm.
Hôm sau mới dùng miếng sponge để chùi rửa. Chất dùng để chống lại sự dính nhau (static) có trong Fabric Softener sẽ làm cho đồ ăn rớt ra khỏi xoong nồi dễ dàng hơn.
10. Ðặt một miếng giấy Fabric Softener dưới đáy của mỗi thùng rác để tránh mùi hôi.
11. Dùng miếng Fabric Softener để lau những nơi có dính lông chó hay mèo, nó sẽ lấy đi những lông rụng đó một cách sạch sẽ.
12. Dưới mỗi giỏ đựng quần áo dơ, bao giờ cũng đặt một miếng Fabric Softener để khỏi có mùa hôi.
13. Làm cho giày không có mùi hôi bằng cách đặt miếng Fabric Softener trong đó qua đêm. Ngày mai, đôi giày sẽ thơm tho để mang đi làm hay đi học.
14. Dùng Fabric Softener để lau mặt kính máy TV sẽ làm cho bụi bặm bớt đóng lớp trên đó.
Khi Mình Phán Xét Người Khác - BS Nguyễn Thượng Chánh
29/07/2014
Bs Nguyễn Thượng Chánh
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường có khuynh hướng hay phán xét, khen, chê, phê bình hoặc chỉ trích người khác. Vậy có khi nào mình tự xét lại mình hay không?
“Họ có ý kiến về mỗi người nhưng chẳng có một ai làm họ vừa lòng hết. Không thề có được lòng khoan dung, phán xét là một cách để chứng tỏ rằng họ tồn tại.”
(“ls ont une opinion sur chacun, et nul ne trouve grâce à leurs yeux. Incapables de tolérance, le jugement est devenu pour eux une façon d’exister.”) Laura Lil - Je juge tout le monde -
Psychologie.com
* * *
Các bộ mặt của phán xét
Phán xét có thể bằng lời nói, bằng lời viết, bằng cử chỉ, bằng thái độ khinh khi, bĩu môi, tảng lờ đi, hoặc đôi khi chỉ cần nghĩ thầm trong bụng mà thôi.
Phán xét có thể đúng, sai, thiên vị, chủ quan hoặc khách quan.
Dường như phán xét tiêu cực, vì ganh ghét đố kỵ, để đả phá, để trả thù, để cho đở tức, để ngạo mạn, chỉ trích cho bỏ ghét... thường dễ xảy ra hơn là phán xét xây dựng, thiên về khuyến khích để giúp người khác sửa sai, tránh lỗi lầm, để nâng tinh thần, hoặc để khen thưởng một người nào đó.
Nên nhớ là sự tức giận là vũ khí của kẻ yếu hèn (la colère est l’arme des faibles).
Phán xét thường chịu ảnh hưởng của tình cảm cá nhân, thương hay ghét, tùy theo cách nhìn một vấn đề, tùy theo sự hiểu biết hay tri thức, tùy khung cảnh xã hội, tùy quyền lợi cá nhân, quan điểm chánh trị hay tín ngưỡng của mỗi người.
Phán xét có thể thay đổi theo thời gian và không gian.
Đó là chưa kể trong xã hội cũng có một hạng người lúc nào cũng hay nói móc lò, bác bỏ, vạch lá tìm sâu, chê bai bất cứ lời nói, ý kiến hay việc làm của người khác. Theo họ thì tất cả đều sai hết duy chỉ có họ mới đúng mà thôi. Phải chăng họ đang mắc chứng xáo trộn nhân cách ái kỷ (narcissisme).
Nói điều tiêu cực, chê bai người khác là một bản năng tự vệ
Nói xấu, nói lời nghịch nhĩ, có cử chỉ, hành vi bạo lực được xem là những phản ứng tự vệ để khỏi bị mất mặt và thua thiệt.
Bản chất con người rất phức tạp vì nó được uốn nắn bởi tình cảm tốt và xấu: thương ghét, tham lam, ham muốn, ganh tị, ghen tương, suy bì, so sánh hơn thua, tranh chấp hơn người.
Dĩ nhiên khi nói xấu, chúng ta phản ảnh với những gì mình đang mang trong người, khi thì tiêu cực khi thì tích cực. Khi tiêu cực, chúng ta muốn tung ra cho người khác nỗi khổ của chính bản thân mình. Khi chúng ta thấy người khác đau khổ, bị nhục nhã thì các nỗi niềm khổ dau khổ của chính mình cũng sẽ được vơi đi. Chúng ta vui sướng khi thấy người khác thua thiệt và đang ở vị thế yếu kém.
Ngoài ra còn vấn đề khen chê giả dối vì xã giao, để lấy lòng, để kiếm điểm, để nâng bi, nịnh bợ, thượng đội hạ đạp, nghèo thì đạp, giàu thì ganh. Trước mặt thì khen nhưng sau lưng thì bĩu môi, nhăn mặt, nhíu mày, nháy nháy con mắt, nói lén chê bai tới tấp... thật đúng là hạng đạo đức giả, xoay theo chiều gió.
Khi phán xét người khác là mình tự phán xét chính mình (Juger l’autre, c’est porter un jugement sur soi. Norbert Chatillon, Psychanalyste)
Xin đúc kết lại vấn đề phán xét theo cái nhìn của khoa tâm lý học và khoa phân tâm học (psychanalyse) đăng trong tạp chí: Psychologie Magazine no 27 Nov 2008
Khi chúng ta phán xét bất cứ việc gì của người khác chúng ta sẽ tự mình làm tiêu mòn năng lực một cách vô ích thay vì có thể giữ chúng lại để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của mình được thêm phần tươi đẹp và phong phú hơn.
Vậy tại sao chúng ta có tật hay phán xét kẻ khác? Theo nhà phân tâm học N. Chatillon thì chính sự tương đồng hoặc sự khác biệt với người khác làm mình bối rối khó chịu và mình không thể xác định được căn tánh (identité) của chính mình. Vậy cách tự vệ tốt nhất là mình phải tấn công người ta qua việc phán xét họ thẳng thừng không thương tiếc.
Trước khi phán xét người khác thì nên tự hỏi mình có trong sạch hơn người kia không?
(Người nào tự cho rằng mình là trong sạch, hãy ném cục đá đầu tiên vào người đàn bà)
"Let the person among you who is without sin be the first to throw a stone at her." John 8:7
Trong Kinh Thánh St Luc có viết: “Tại sao các ông để ý tới hạt bụi trong mắt người ta nhưng lại bỏ qua khúc gỗ nơi mắt của mình?”
Chỉ trích ít nhưng phải chỉ trích cho đúng.
Từ việc chỉ trích để xây dựng dến việc kết tội thì cũng không mấy xa nhau, chỉ cần có thêm đôi ba chữ mà thôi.
Phán xét được xem là có ích khi nó giúp mình cải thiện và xây dựng căn tánh của mình. Trong trường hợp nầy sự phán xét sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn chính chắn về xã hội quanh ta.
Phán xét trở nên độc hại khi nó rơi vào cực đoan, khinh mạn, để hạ và để chà đạp người khác, để che lấp bớt cái dở, cái yếu kém của mình hầu có được cảm giác thượng tôn hơn người.
Loại phán xét đả phá rất có hại vì nó có thể dẫn dắt chúng ta rơi vào sự chối từ người khác.
Phán xét rất chủ quan và chịu ảnh hưởng của định kiến.
Tuy vậy, phán xét cũng rất cần thiết. Nó giúp chúng ta có “ý kiến” nhưng đôi khi nó có thể trở thành một lối khinh miệt đưa đến sự kết tội người khác.
Mặc dù thành kiến là cội nguồn của sai lầm và bất công, nhưng triết gia Đức Immanuel Kant (1724- 1804) cũng đã nhắc nhở chúng ta cần phải có bổn phận phán xét. Đó là trường hợp phải phán xét kẻ sát nhân và những kẻ phạm tội tình dục, hiếp dâm, v.v... Đây là những trọng tội trong xã hội.
Theo các nhà phân tâm học thì chúng ta thường có khuynh hướng hay phán xét những hành động vô luân (immorale) nếu trong tiềm thức chúng ta cũng có tư tưởng tương tợ như thế. Có thể nói rằng đây cũng là một cách để mình tự trừng phạt lấy mình.
“Anh kia say sưa tối ngày”, câu phán xét nầy có mục đích giúp chúng ta quên đi mình cũng là dân ghiền, nghiện ngập nicotine, thuốc lá, chocolat v.v...
“cha nội đó lái xe ẩu tả quá...”
So sánh mình khác người. “Anh kia sao làm biếng quá”, khi phán xét như thế mình muốn chứng tỏ là mình siêng hơn họ. Người ta nghĩ sai, làm trật, họ khác mình. Vậy là mình là người nghĩ đúng làm đúng.
Cũng có thể mình so sánh điểm tương đồng và sự giống nhau với họ. “Ông giám đốc cùng tuổi với tôi và cũng là bạn học của mình hồi trung học.”
“Bác sĩ kia quá tài ba quá. Hồi nhỏ, tôi và ổng ở cùng chung một xóm bên Phú Nhuận đó.”
Đây là một sự so sánh, một lối lý luận quá đơn giản và có lợi.
Phán xét bề ngoài của một người có nghĩa là mình nghi ngờ về hình ảnh của chính mình. Tôi có khá hơn họ, đẹp hơn họ không? Tôi có thua kém họ không? Qua việc phán xét, mình quên đi trong chốc lát những yếu điểm của chính mình. Mình chỉ chú tâm vào kẽ hở của người khác.
Phán xét có thể bắt nguồn từ sự ganh tị: con nhỏ đó tuy đẹp nhưng nó có vẻ không mấy thông minh, không có nết, lẳng lơ quá…
Người đó rất giàu có nhưng lại hết sức keo kiệt và bủn xỉn. Không bao giờ chịu giúp đở ai hết...
- Sự thông minh:
Tính thông minh đồng nghĩa với cường tráng (virilité) ở người đàn ông.
Phán xét sự thông minh của một người đàn ông thì cũng như đem hoạn (hay thiến) anh ta.
Đề cao trí thông minh của một người đồng nghĩa là mình có đủ tư cách để xác nhận sự thông minh của họ. Đây là thái độ chịu thua của mình.
- Cách hành xử:
Tấn công vào lối cư xử lố bịch của một người là một cách gián tiếp để mình tự xác định là lúc nào mình cũng đàng hoàng, ngon lành hơn họ và đồng thời mình thuộc vào nhóm người có tư cách.
Thái độ nầy cho thấy chúng ta có một tâm địa hẹp hòi hoặc là chúng ta sợ bị thải trừ ra khỏi xã hội.
Đứng về mặt giao tế, một người tốt, có giáo dục là một người mà chúng ta có thể giao tiếp được.
Ý niệm nhờ giáo dục (gia đình và học đường) mà một người trở nên tốt là những ý niệm chúng ta hấp thu được từ lúc nhỏ và cũng là điều mà chúng ta thường hay truyền đạt lại cho lớp con cháu.
- Ý kiến:
Phán xét về ý kiến cũng là một loại phán xét rất phổ biến. Trong các sách dạy cách xử thế chúng ta đều thấy lời khuyên bảo nên tôn trọng ý kiến của người khác mặc dù mình không đồng ý với họ.
Văn hào Pháp Voltaire (1694-1778) đã nói một câu để đời “Tôi có thể không đồng ý với những gì anh nói ra, nhưng tôi sẽ bảo vệ quyền phát biểu của anh cho đến cùng.” (I do not agree with what you have to say, but I'll defend to the death your right to say it.)
Bá nhơn bá tánh hay trăm người trăm ý và xin đừng quên hiện nay có 7 tỉ người đang sống trên thế giới.
Ngoài ra cũng có thể có một hạng người có thái độ ba phải, nay nói thế nầy mai nói thế khác... ý kiến họ thường có khuynh hướng xoay theo chiều gió.
Tại sao họ phải nghĩ xấu về người khác?
1) Bằng mọi giá, hắn ta không từ khước bất cứ cách gì miễn được thành công
Thí dụ: “Bạn có biết không, nghe nói ông A có thời đã ngồi tù về tội lường gạt.”
Theo nhà xã hội học Jean Bruno Renard thì người nói xấu cố tình gieo rắc những tìn không tốt về một người nào đó và họ cho rằng đó là tin có cơ sở đáng tin cậy.
Cho dù nguồn tin có đúng hay sai đi nữa thì người nói xấu vẫn có thể chứng minh thái độ ngay tình, ý tốt của anh ta (hay chị ta) muốn thông tin, cảnh báo thiên hạ về một mối hiểm nguy.
2) Để tạo mối giao tiếp xã hội
Kẻ nói xấu cố tạo cho họ một cái vỏ thiện cảm: các lời chỉ trích của hắn ta đều có vẻ có ích lợi. Nó chứng tỏ hắn ta cũng biết được một cái gì đó ở nạn nhân với ngụ ý là hắn ta khá hơn người đó rất nhiều.
Chỉ trích người khác, có nghĩa gián tiếp là mình nói điều tốt về mình và cả cho những người chịu nghe mình kể.
Sau những câu nói xấu đều có tiềm ẩn cái ý sau đây: Tôi kể cho bạn nghe chuyện đó vì tôi không phải là hạng người như thế và cũng tại vì tôi biết các bạn cũng không phải như vậy.
3) Vì họ thiếu lòng tự trọng
Tại sao không tạo mối giao tiếp xã hội bằng cách kể những chuyện có tính cách tốt và xây dựng? Theo nhà tâm lý học Isabelle Filliozat: «kẻ nói xấu người khác có cảm giác là hắn ta chẳng có cái gì riêng tư để kể hết.» Hắn ta nói chuyện về một người bạn láng giềng, về một người đồng nghiệp vì không còn chuyện nào khác để kể, vì hắn nghĩ rằng nếu đem chuyện mình ra kể thì chả có gì hấp dẫn hết.
Những lời nói xấu nhắm vào người khác là một báo hiệu của một tình trạng tuyệt vọng (détresse) của một người không còn lòng tự tin và tự trọng nữa (confiance et estime de soi).
4) Vì họ thích nói xấu người khác
Thiếu lòng tự tin vào chính mình sẽ kéo theo tình trạng họ không dám tự khẳng định (s’affirmer).
Trong đời sống, họ luôn luôn mang tâm sân hận, tức giận, bực bội và từ đó tạo nên sự giận dữ.
Nếu họ nhìn nhận là họ tức giận thì đó chẳng khác nào họ xác nhận sự yếu hèn của họ hay sao?
Ngưòi đời thường nói sự tức giận là vũ khí của kẻ hèn yếu đó sao.
Vì vậy, từ vô thức họ chĩa mũi dùi vào người khác, đặc biệt là vào những người tài giỏi, những người thành công và may mắn hơn họ.« Con đó có tài nghệ gì đâu, chẳng qua là do chạy chọt đút lót, nhờ phe đảng, nhờ quen lớn mà thôi… »
Trong nhiều trường hợp khác, họ nói những gì mà họ ghét và kinh tỡm nhất trong chiều sâu của họ. Thí dụ: Bà đó tham lam quá, thằng đó có tính quy kỷ (égocentrique). Nó tưởng nó là trung tâm của vũ trụ.
Theo nhà phân tâm học Philippe Grimbert: «Mình sẽ phịa ra hay chỉ đích danh cho mọi người biết những nét mà mình không ưa, mình không chịu đựng được vì đó chẳng qua là những khía cạnh mình đang mang trong người mà chính mình cũng không có thể nào chấp nhận được.»
Sự nói xấu dựa trên hiện tượng tâm lý học gọi là phóng chiếu: mình gán cho người khác một phần của chính mình mà mình từ chối không chấp nhận hay mình ý thức rằng không thể nào nhận biết nó được.
Các tôn giáo nghĩ gì về vấn đề phán xét
Thiên Chúa giáo:
Chỉ có Chúa mới có quyền phán xét con người.
Matthew 7:1 (NIV)
“Do not judge, or you too will be judged
Matthew 7:2–5 (NIV)
For in the same way you judge others, you will be judged, and with the measure you use, it will be measured to you.
Đức Giáo Hoàng nói: Đừng phán xét - anh chị em không phải là Thiên Chúa đâu!
Trong thánh lễ sáng thứ Hai 23 tháng 6 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên các tín hữu hãy từ bỏ thái độ xăm xoi, phán xét người khác. Ngài gọi đó là thái độ của những kẻ giả hình đang bị Satan xúi giục.
Đức Thánh Cha giải thích rằng:
“Khi phán xét người khác, ta đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa, là Vị thẩm phán duy nhất. Nếu ai hy vọng một ngày nào đó những hành vi phạm tội của mình được tha thứ, thì đừng phán xét người khác.”
Phật giáo
Phải có một cái nhìn đúng đắn và trong sáng (vision juste et nette).
Theo như cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải cho biết:
“Đức Phật không hề nói đừng bao giờ phán xét người khác. Câu đó là của Chúa Jesus trong Kinh Thánh.
Ngược lại, Đức Phật yêu cầu đánh giá người khác, để tìm bạn tốt, và tránh xa bạn xấu. Có hai chỗ có thể đọc về Thiện Tri Thức:
TĂNG NHẤT A-HÀM
Hán dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà, người Kế Tân, thời Đông Tấn
“Mặt khác, Đức Phật yêu cầu tự do trạch vấn, nghi ngờ (nghĩa là đánh giá -- judging) ngay cả đạo sư. Trong Kinh Kalama: "Này các Kalama, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận, chớ có tin vì nhân suy luận, chớ có tin sau khi suy tư về những dữ kiện, điều kiện, chớ có tin theo thiên kiến, định kiến, chớ có tin vì thấy thích hợp với khả năng, chớ có tin vì vị Sa môn là bậc Đạo Sư của mình.(http://www.thuvienhoasen.org/haytuminhthapduoc.htm)
...tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái gì khác”. (Ngưng trích)
Kết Luận
Tây phương có câu: Nếu không nói ra được những điều gì tốt đẹp thì tốt hơn hết là đừng nên nói gì hết. (If you can’t say something nice, don’t say anything at all).
Theo Phật giáo, người biết đạo phải giữ tâm trong Bát chánh đạo, không nghĩ xấu, nói xấu, nói lén người khác.
Phê phán người khác thì dễ, xét lỗi lầm của mình thì khó. Chung quy cũng từ cái Tâm của mình mà ra.
Nếu chúng ta biết mở rộng cõi lòng, thì bất cứ ai, kể cả người đã làm mình bực mình điên dại, đều có thể là bậc thầy của mình. (Sư nữ Pema Chodron)./.
If we learn to open our hearts, anyone, including the people who drive us crazy, can be our teacher.” ~Pema Chodron
Pema Chưdrưn is a notable American figure in Tibetan Buddhism. A disciple of Chưgyam Trungpa Rinpoche, she is an ordained nun, author, and teacher in the Shambhala Buddhist lineage which Trungpa founded.(Wikipedia)
Lời Bàn Về "NHÂN - QUẢ - NGHIỆP" Qua Chuyện Cô Vũ Nữ Cẩm Nhung Bị Tạt Acid Năm 1963 - Diệu Châu
Xét rằng bài này hữu ích cho nhiều gia đình, biết đâu cứu vãn được nhiều gia đình đang "rung rinh" như căn nhà sắp sập...
Cứ nhìn thấy bà vợ "kè kè" mình thì biết mình "rất có giá", chớ "hó hé" mà đổ họa. Bởi vì "thương càng nhiều...thì hận càng nhiều" khi biết ra bấy lâu bản thân bị lừa dối. Đó là con dao 2 lưỡi, sung sướng bao nhiêu thì khi bị trừng phạt, sẽ lảnh tương đương.
Những nghiệp xấu hay tốt mình tạo ra, không bao giờ mất, nó đi 1 vòng sẽ trở lại với mình. Cách hay nhất là tu, là chuyển hóa những tính xấu đã gây cho người khác là làm thêm điều thiện lành, phước báu.
Một nắm muối sẽ làm chén nước rất mặn, nhưng cũng nắm muối này sẽ chẵng làm mặn được một hồ nước. Nắm muối là ác nghiệp, nước là thiện nghiệp, nước không bị mặn, tức nghiệp lành đủ nhiều để hóa giải nghiệp ác.
Lần chót đọc bài này vì cô vũ nữ Cẩm Nhung vừa qua đời, chấm dứt một tấn thảm kịch mà toàn dân miền nam thuở đó ai ai cũng giật mình khi nghe cô vũ nữ trẻ trung, xinh đẹp, nổi tiếng vì nhiều kẻ tung bao nhiêu tiền để được kề cận bên cô, lại phút chốc biến thành một người xấu xí đến đáng sợ, tật nguyền (mù lòa) và kéo dài kiếp sống của một kẻ ăn xin hơn nửa thế kỷ qua!
Phù du, Vô thường là đó, Nhân Quả cũng ở đó...càng thấy đạo Phật đã nói đúng bấy lâu mà người ta thì như "điếc không sợ súng" cứ tưởng chuyện chỉ xảy ra với ai khác, chứ nào biết đâu rằng ai ai cũng là vai chính trong vở bi hài kịch đời vạn kiếp này.
Chúng sinh vừa "đáng thương" vừa "đáng trách" ở chỗ là VÔ MINH.
Đáng trách là khi vi phạm điều bất thiện, tham lam thì không hề áy náy, cứ làm càng, miễn thấy thỏa lòng ưa thích của mình; khi giận dữ thì làm thật ác để thỏa dạ mà không sợ hậu quả...vậy có chổ nào đáng được cảm thông?
Nhưng đáng thương ở chổ là do Vô Minh nên mọi việc chỉ muốn làm cho mình sướng nhưng rốt ra là làm chi cũng đang làm hại mình mà không hay biết, đến khi vỡ lẽ thì khổ sở đến thật đáng thương.
Nên có câu: "Bồ Tát sợ Nhân, chúng sanh sợ Quả" có nghĩa là từ đầu Bồ Tát đã sợ nên không làm bất cứ Nhân xấu, còn chúng sinh thì làm xả láng, khi Quả thê thảm xẫy ra lúc ấy mới biết sợ, đã quá trễ!
Trong câu chuyện này hay bất cứ câu chuyện nào có dính líu đến 3 người trong 1 cuộc tình đều đem đến đau thương và đổ nát nếu không có ít nhất 1 người biết dừng lại, lui ra cái quỹ đạo cột 3 người này thì chỉ có thể chấm dứt bằng một sự việc thật đau lòng, không thể cứu vãn.
Đàn ông hầu hết là bay bướm , không cần yêu tha thiết, miễn họ có chút địa vị, có tiền của vun ra là sẽ được thỏa sex, sống yên lành thật là boring với họ, có hồi hộp mới có lý thú với họ thì phải? Cho dù họ là đàn ông không giàu có gì cho lắm, thì có được bao nhiêu phần trăm đàn ông đàng hoàng tử tế? Do vậy, có được 1 gia đình đề huề, không lộn xộn...( chưa chắc hạnh phúc hoàn toàn) là xem như là có phước lắm rồi.
Đàn bà bình thường thì chỉ muốn yêu 1 người và hy sinh tất cả để bảo vệ tình ấy cho riêng mình, chuyện này chưa có tội khi chưa đủ duyên, nhưng càng hy sinh thì càng thấy mất tất cả, không thể đứng vững 1 mình nếu có ai đó "rinh" đi mất ông chồng, cơn ghen khi nổi lên khó lòng khống chế nổi và như "ngọn lửa cháy thiêu cánh rừng công đức" trong phút chốc, hình phạt có tính hình sự mà họ tự cho là có quyền đổ lên tình địch thì quá sức tàn nhẫn mới vừa với "cái nư" của họ. Làm thế cũng không thể giữ được ông chồng vì chính ông ta cũng không biết có thể giữ được mạng của ông ta khi ở cận kề một "sư tử Hà Đông"Nên nói khi hết thương dễ biến thành thù hận.
Trên thực tế còn có nhiều bà khi ghen còn thêm suy nghĩ rằng, chính "của quý" của ông chồng mới là thủ phạm chánh, nó làm cho ông ta thỏa dục vọng thì "thiến" quách nó đi là từ nay dứt hậu hoạn, bà "không hưởng thì đừng hòng ai được hưởng"! cho đó là 1 cách trừng trị đích đáng cho các ông có máu phản bội.
Lúc giận, đặc biệt lúc ghen tuông, người ta luôn cảm thấy bị đau lắm, khổ sở vô cùng, khổ đến nỗi phải làm bất cứ cái gì đó để hủy diệt, tàn phá đổ nát, thương đau càng nhiều càng tốt cho người gây họ khổ thì mới xoa được cái đau đó. Nhưng mà, câu chuyện như vậy có bao giờ chấm dứt êm xuôi, càng trả đủa trả thù, càng chất chồng oan oan tương báo, càng tạo ác nghiệp thì cứ đi trong luân hồi mà trả mãi mãi.
Bản thân người vợ này cũng không muốn hậu quả khôn lường đến thế, nhưng "giận quá mất khôn" ắt xẫy ra khi mà tự biết mình không thể nào có bản lảnh giữ chân được người chồng. Mà rồi cũng mất tất cả, còn lại là cái nghiệp tàn ác này sẽ theo bà ta mãi mãi.
Bà ta biết tu là còn chút phước để tìm về chánh đạo, dù sao thì cũng phải trả quả rất nhiều.
Còn cô tình nhân thì sao? lý ra nếu cuộc đời không có bất hạnh thì cô cũng như bao nhiêu người đàn bà khác.
Nếu cô không có nhan sắc, chắc là cô cũng sẽ trở thành những người nghèo khổ tìm sinh kế bằng các nghề lao động, nhưng đằng này, có nhan sắc, người ta cũng sẽ kéo níu, lèo lái đưa cô vào các nghề mua vui cho đàn ông. Tệ thì làm gái ăn sương, khá hơn 1 chút, biết nhảy thì làm vũ nữ....Với tuổi trẻ, sung thời thì đàn ông đến dập dìu, khi cao giá thì cứ làm cao, nên tiền vào như nước...thì xài cũng như nước, không hề nhớ nghĩ rằng khi hết thời, đói rách đang chờ...
"Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí" là thế, cái vô minh ban đầu của cô không hề biết lôi cuốn, rút rỉa tiền bạc của những đàn ông có vợ là biến thành tình địch không đội trời chung của nhiều "sư tử Hà Đông", cái nhan sắc ấy là bửu bối của cô thì họ sẽ hủy hoại nó là xong, vô minh kế là nếu cái nhan sắc thu hút ấy đã mất, ngay cả không còn có thể hành nghề vũ nữ kiếm ăn bình thường, nói chi tiền vô do đàn ông ái mộ chạy theo...mà lại hận đời, tự hại đời bằng cách tự buông thả rơi vào nghiện ngập cho quên hiện tại.
Không có gì hại mình bằng chính mình còn tiếp tay kẻ khác hại mình, nghiện ngập tiền hết mau mà còn vướng vào nó như 1 thứ nô lệ. Đó là một chuổi Nhân Quả nối đuôi nhau.
Ở đây, ai đã lâm vào hoàn cảnh đau khổ này thật sự cũng không bảo đảm là còn có thể sáng suốt!
Trong đời, có khi sự việc chưa từng xảy ra tệ như thế, cứ tưởng là tận cùng bằng số rồi, nhưng mà lúc đó không care thì càng tệ hại hơn, coi như chết là hết, nhưng khổ 1 nỗi là có khi muốn chết cũng không thể, bởi vì lúc đó mới phát giác ra mình rất "sợ chết", không đủ can đảm kết liểu đời mình, lắm khi lấy hết sức bình sanh làm 1 "nhát" cho xong, nào ngờ chết không được vì có khi có người cứu! thế là cái cảnh khốn cùng, đau khổ dây dưa đeo đẳng cho đến lúc "hết dầu, đèn mới tắt"!
VÔ MINH của con người là chấp cái ngã, từ cái ngã đó nó sinh ra nhiều thứ tham lam.
Đàn ông tham danh vọng, tiền tài, sắc đẹp...
Đàn bà tham tình, có nghĩa là tình yêu quan trọng bậc nhất với họ, họ sống cũng chỉ tìm tình, vun bồi nó gần như trọn đời...khao khát lúc nào cũng muốn mình được thương yêu nhất (hạng nhì không thể vui được!), muốn được yêu mãi mãi...ngay cả thề non hẹn biển đến kiếp sau càng "ưa" hơn...họ nào có biết nếu cái tình gọi là "True love" này ( mà ai cũng hằng khao khát và ca tụng) qua đến kiếp sau thì biết bao ngang trái đang chờ:
* Tuổi tác vô cùng so le ( chồng già cúp bình thiếc, vợ trẻ như cháu nội/ngoại thấy rất thường; vợ như bà, chồng như cháu sau này cũng xảy ra không hiếm) .
* Thân phận nghề nghiệp trong xã hội so le đến độ bị mọi người cản trở, không thể chấp nhận được.
* Liên hệ máu mủ, ruột rà ai ai cũng chống đối.
* Thân phận liên hệ đến tôn giáo, tăng, ni, hay "cha" không thể có gia đình.
Hãy nhìn trong xã hội sẽ thấy được mấy người tu vượt khỏi chuyện luyến ái, dục tình, nhất là sư giả thì càng kinh khủng hơn người thường, khi biết ra.
Còn biết bao thứ ngang trái, oái oăm đã xảy ra và làm nên biết bao
đau khổ trong đời.
Chưa kể do có nhiều kiếp sống, một người hiền lành, chung thủy chỉ 1 vợ 1 chồng; nhưng sống qua vô lượng kiếp thì mỗi người sẽ có vô lượng người ( trừ đi 1 số cuộc tình lấy lệ, không sâu đậm) mà họ từng yêu thương hết lòng! Đó mới là nghiệp chướng, vì đang yên vui với người hiện tại, do duyên, bỗng lại hội ngộ với 1 người vợ/chồng mà kiếp nào đó mình yêu vô cùng, hợp rơ vô cùng và dính nhau bằng cái nợ mật thiết đã khiến lòng họ luôn vấn vương, không thể quên được hình bóng của họ, không thể escape được mà phải gắn liền lại để trả những nghiệp thiện hay bất thiện đã gieo cho nhau. Thế là đau khổ xẫy ra, bên nghĩa của vợ/chồng hiện tại, bên tình sâu đậm của người vợ/chồng kiếp nào...bên nào nặng hơn?
Ở đây lý trí luôn thua tình cảm, vì tình hoạt động rất mạnh, chính tình làm người ta vui-buồn-khổ-sướng...nên rồi ra, cái khổ nó như 1 bóng ma luôn đeo đẳng con người, chả biết khi nào nó mang họa đến cho mình!
Cho nên tình cảm chớ ràng buộc vô cùng sâu đậm vào, chỉ vợ chồng con cái và quên vun bồi lòng nhân đạo nói riêng, lòng thương chúng sinh nói chung; sẽ dễ tạo xu hướng trong kiếp tới là cái ngã sẽ "rà" tìm lại những người mình từng yêu thương.
Đặc tính này hiển lộ khi mình vừa thấy 1 người là có 1 cảm giác vô cùng thân thuộc với người này từ kiếp nào, thấy tánh tình, sở thích của mình và họ rất hạp nhau, và tự trong đáy sâu của con tim chỉ thấy đây là người duy nhất mình yêu thương, sẵn sàng cống hiến, tặng cho tất cả, không chút tính toán lợi hại (mà dưới mắt kẻ ngoại cuộc chỉ thấy đó là ngu si, khờ khạo, chứ họ không biết mãnh lực của nghiệp lực vô hình này ngoại trừ khi nào họ là người trong cuộc!) miễn họ vui là mình được vui, miễn họ an lành là mình an lành, và chỉ với họ mới cảm thấy hạnh phúc (đó là hiện tượng Tiếng Sét Ái Tình). Đó là "cố nhân" của kiếp đã qua.
Hội ngộ lại cố nhân rất là hạnh phúc khi đó là thuận duyên, trai- tài gái- sắc, xứng- đôi vừa- lứa…nhưng nếu gặp các nghịch cảnh kể trên thì quả là nghiệp chướng, oan khiên.
Cho nên chỉ có 1 cách vượt ra khỏi oan trái, nghiệp chướng là TU, tu là tự mình giải thoát đi cái gọng kiềm của chấp ngã (nếu tu xa hơn có thể giải thoát ra khỏi vòng luân hồi).
Chấp Ngã là tự yêu thương mình rất nhiều = tự ái, cần được yêu thương rất nhiều, tự cao, tự đại, tham lam, không thỏa lòng tham sanh ra sân hận, có nhiều tà kiến= ngã kiến nên rất chủ quan, không thể khách quan khi đụng đến ngã và ngã sở (cái thuộc về ngã, như vợ/chồng/con cái/nhà cửa/xe cộ/tôn giáo/quốc gia... nghĩ là của mình thì mình sẽ sống chết với ai khác khi kẻ khác dám đụng đến cái thuộc về của mình, thật ra không người nào là của người nào vĩnh viễn, họ chỉ thuộc về nhau khi còn duyên hợp, khi duyên tan thì hết)...mà phải mở rộng tình thương hạn cuộc ràng rịt với cái ta này thành 1 tình thương vô điều kiện bao la cho tha nhân thì sẽ giảm đi không biết bao nhiêu đau khổ trên cõi đời này.
Tu là chuyển sửa nghiệp xấu thành nghiệp tốt; làm điều tốt cho tha nhân và cũng không quên hồi hướng công đức cho tất cả thân quyến nhiều đời, hay những người mà ta đã nhận ơn, chưa dịp trả để họ có thêm phước báu tìm thấy chánh đạo hầu xóa bỏ nghiệp lực tìm đến nhau để trả vay, vay trả nữa.
Tu là tự mình nhìn lại cái tâm (đó là cái tâm vọng mà bấy lâu mình cứ chạy theo tâm hư dối này), nhờ Phập pháp để quán xét, điều chỉnh, bỏ bớt tất cả những thứ rườm rà, dư thừa, tai hại...và phát huy cái nhìn khách quan, vô tư với một tấm lòng thương yêu vị tha, Từ Bi, Hỉ Xả....thì tâm sẽ trong sạch, trong sáng...như ly nước lóng cặn, sẽ sáng trong ra và trí huệ của chân tâm sẽ hiển lộ nếu kiên trì tu, và tu đúng chánh pháp.
Thân ái
(Diệu Châu = Thanh Hương)
TB: Do không khỏe cho lắm để check lại nhiều lần, nếu có sai sót, xin các bạn miễn chấp nhé.
Buổi tối tại một quán nhậu đông đúc ở Hà Lội, có hai ông ngồi ở một bàn khuất góc quán, uống rượu mặt đỏ gay. Họ đang tranh luận gì đó, chợt ông mặc áo trắng nói:
– Tụi lãnh đạo bây giờ nhiều đứa xấu xa, tồi tệ như chó!
Ông mặc áo xanh bỗng nổi khùng :
– Tôi phản đối cái lối nói xúc phạm, bôi bác của anh.
– Nhưng mà tôi nói đúng!
– Anh nói sai rồi!
– Tôi nói đúng!
– Anh nói sai! …
Cả hai to tiếng gần như muốn xô xát. Thực khách xung quanh chạy lại can gián:
– Chuyện gì mà hai ông bạn phải to tiếng như vậy? Có gì thì cứ từ từ ôn hòa mà giải quyết .
Ông áo xanh:
– Ông ấy nói lãnh đạo bây giờ tồi như chó … Nói như vậy là rất xúc phạm... nên tôi phản đối.
Một thiếu nữ trong đám đông lên tiếng :
– Nói vậy là đúng chứ xúc phạm cái gì ?
Ông áo xanh:
– Không phải xúc phạm đám lãnh đạo mà là xúc phạm con chó của tôi !!! Đám chúng nó không đáng được đem ra so sánh với con chó của bất cứ ai . Chó còn hơn chúng nó nhiều!!!
Thầy bói mù
Ngày đầu xuân, vợ đi lễ, lắc xâm, xin quẻ.
Te te chạy về, hớn hở khoe với chồng:
- Hay lắm anh ạ. Ông thầy bói này mù cả hai mắt, chỉ ngồi một chỗ bấm quẻ thôi mà biết đủ mọi việc, nói gì trúng nấy, lại nói rõ là em đẹp lắm, đẹp như người mẫu ấy chứ...
Mù mà sao lại giỏi thế không biết.
Có điều lúc nào thầy cũng đeo lù lù cặp kính đen, chẳng biết là mù thật hay mù giả.
Không cần suy nghĩ, chồng nhanh nhẩu quả quyết:
- Mù. Mù thật.
Cãi lộn
Một hôm đi bộ trong công viên Miles Square Park (California) bên cạnh một cô gái trẻ, đẹp. Cô này dẫn theo một cậu em còn bé. Bất ngờ cậu bé hỏi cô chị:
- Chị ơi 2 con chó đang làm gì vậy?
Cô chị trả lời:
- 2 con chó đang "cãi lộn".
Tôi bèn nhìn về hướng chỉ tay của cậu bé, thì ra 2 con chó đang "mắc lẹo". Ngứa miệng tôi nói:
- Này cô ơi, mình người lớn sao lại nói dối con nít. 2 con chó như vậy mà cô bảo chúng nó "CÃI LỘN" à!
Cô gái đỏ mặt, sẳng giọng lớn tiếng:
- Tôi nói với em tôi, mắc mớ gì đến ông mà ông chõ miệng. Đồ dzô dziên.
- Thưa cô! tôi không "dzô dziên", nhưng chẳng lẽ cô cũng lại muốn "CÃI LỘN" với tôi?
Cẩm nang giúp gái ngoan dậy chồng
18 điều dạy chồng
Điều 1: “Tôi luôn đúng, không có nghĩa là anh luôn sai. Anh sẽ đúng khi nào tôi cho phép.”
Điều 2: Đừng để tôi đọc được tin nhắn "linh tinh" của con nào trong điện thoại, không tôi chửi cho ủng mả cả 2 đứa.
Điều 3: Hút thuốc thì không được hôn, muốn hôn thì không được hút thuốc. Kinh bỏ mẹ...
Điều 4: Thích chết thì cứ săm soi con em gái tôi đi.
Điều 5: Đến nhà tôi thì đừng có giở trò bậy bạ...
Điều 6: Mua quần áo cho tôi thì phải dẫn tôi đi, cứ tự ý mua về mà tôi không thich thì khóc ra tiếng Mán nhá.
Điều 7: Quần áo tôi mua cho là phải mặc bằng hết, tôi mà thấy vứt lung tung là khỏi mặc gì luôn.
Điều 8: Hẹn hò với tôi mà đến muộn, tôi đi với thằng khác cấm kêu. Kêu tôi đập chết.
Điều 9: Thấy tôi giả vờ ngoan ngoãn khi nói chuyện với ông bà già anh cấm được bịt miệng cười. Cười...cười cái gì... Có thik cười không.
Điều 10: Thấy tôi bảo "Đừng" tức là "Cứ tiếp đi", anh mà "đừng" thật tôi cho đừng luôn đấy.
Điều 11: Tôi thích làm gì là quyền của tôi, anh không được thắc mắc. Anh muốn làm gì cũng là quyền của tôi; phải hỏi tôi trước
Điều 12: Tôi còn chưa hỏi tội cái vụ kết hôn với con ranh nào trên Võ lâm đâu. Đấy... thích thì đi mà lấy nó luôn đi, đừng đến đây nữa.
Điều 13: Cấm lên mặt dạy đời, bảo tôi phải làm thế này thế nọ. Ranh con tí tuổi, biết gì mà nói như người lớn ý...
Điều 14: Tôi bảo gì phải làm ngay, không được cãi. Sao...? Ơ thế chưa thuộc điều 1 à... Ngu như lợn.
Điều 15: Tan học phải đứng chờ tôi ở cổng. Tôi mà thấy đứng đấy tí tởn với mấy con khóa dưới thì tôi đập cho lòi kèn.
Điều 16: Đi chơi đâu phải báo cáo tôi, tôi cho phép mới được đi. Lén lén lút lút...tôi mà biết thì xác con nhà bà định.
Điều 17: Phải tìm mọi cách làm cho tôi vui những lúc tôi buồn. Không là anh cũng buồn luôn đấy.
Điều 18: Đọc cho thuộc bài "18 nội quy yêu của girl 9x". Mai tôi kiểm tra lại
Chắc các bạn đều đã có lúc nhầm lẫn giữa sờ cứng (S) và sờ mềm (X), nhất là cách phát âm của người Hà Nội không phân biệt 2 kiểu "sờ" này.
Riêng tôi, tôi không bao giờ nhầm vì từ khi còn nhỏ, tôi đã được cô giáo dạy cách phân biệt - rất đặc biệt - mà đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ về buổi học đó.
Xin kể lại để các bạn tham khảo tránh nhầm lẫn, sờ đúng lúc, đúng chỗ, đừng sờ lung tung.
Trong giờ ngữ pháp, cô nói :
- Hôm nay chúng ta sẽ học cách phân biệt sờ cứng và sờ mềm. Để các em dễ nhớ, cô chỉ cho các em nhé. Các em có nhìn thấy chữ sờ cứng (S) này không? Các em có thấy nó có cái mỏ như mỏ chim không? Còn đây là chữ sờ mềm (X), trông nó giống như cánh bướm đúng không nào? Bây giờ cả lớp đọc theo cô nhé. Sờ cứng là sờ chim, sờ mềm là sờ bướm..
Cả lớp cùng đồng thanh đọc theo cô, sau đó, cô bảo :
- Bây giờ các em đã biết thế nào là sờ cứng, sờ mềm rồi. Em nào có thể lấy ví dụ cho cô nào?
Một bạn gái đứng lên :
- Em thưa cô, sờ chim là sờ Sung Sướng ạ.
- Đúng rồi, em giỏi lắm, đấy là sờ cứng. Thế ai lấy ví dụ cho cô về sờ mềm nào?
Một em trai phát biểu :
- Em thưa cô, sờ bướm là sờ Xấu xa ạ.
- Ôi, các em giỏi quá. Đúng rồi, thế bây giờ chúng ta cùng đọc lại cho thật thuộc nhé.
Và thế là cả lớp đồng thanh đọc :
Sờ cứng là sờ chim
Sờ chim là sung sướng
Sờ mềm là sờ bướm
Sờ bướm là xấu xa.
Liệu các bạn đã đã biết cách phân biệt hai kiểu "sờ" này chưa?
- Một phút bạn tức giận - sáu mươi giây bạn mất đi hạnh phúc - Ralph Waldo Emerson.
- Đừng khóc với những gì đã qua, hãy mỉm cười vì nó đã xảy ra. - Dr. Seuss
- Hãy đếm số tuổi của bạn bằng bạn bè, không phải bằng năm. Hãy đếm cuộc sống của bạn bằng nụ cười, không phải bằng nước mắt - John Lennon
- Hạnh phúc có được phụ thuộc vào chính bản thân chúng ta - Aristotle
- Hạnh phúc là ý nghĩa, là mục đích của cuộc sống, là sự cố gắng và kết thúc của một đời người - Aristotle
- Hạnh phúc của cuộc đời phụ thuộc vào những suy nghĩ tích cực của chúng ta - Marcus Aurelius
- Bất cứ ai hạnh phúc, sẽ làm người khác hạnh phúc - Anne Frank
- Hạnh phúc không phải từ những điều mà ta nhận được, mà từ những điều mà ta cho đi - Ben Carson
- Hạnh phúc không phải là ở việc sở hữu một số lượng lớn tiền bạc, mà là ở trong niềm vui về thành công, trong sự hồi hộp của nỗ lực sáng tạo - Franklin D. Roosevelt
- Hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời là có thể tin chắc rằng chúng ta được yêu thương - yêu vì chính bản thân ta, hay đúng hơn, đó là yêu bất kể bản thân ta - Victor Hugo
- Hãy hạnh phúc với chính bản thân bạn, với những việc bạn làm và những việc bạn muốn làm! - Steve Maraboli
- Quy luật của hạnh phúc: một việc nào đó để làm, một người nào đó để yêu và một điều nào đó để hy vọng - Immanuel Kant
- Khi bạn nuôi dưỡng cay đắng, hạnh phúc sẽ cập bến ở một nơi khác - Andy Rooney
- Hạnh phúc chỉ tồn tại khi chúng ta biết cách chia sẻ nó - Christopher McCandless
- Hạnh phúc mà bạn nhận được tỷ lệ thuận với yêu thương bạn cho đi - Oprah Winfrey
- Hiểu hơn về giá trị bản thân, có nghĩa là: chiến đấu để có được hạnh phúc - Ayn Rand
- Hạnh phúc không phải là một mục tiêu.... Đó là sản phẩm của một cuộc sống tươi đẹp - Eleanor Roosevelt
- Với tất cả những sự giả dối, đau khổ và cả những giấc mơ tan vỡ, thì thế giới này vẫn luôn tươi đẹp. Hãy vui lên. Hãy đấu tranh để giành lấy hạnh phúc - Max Ehrmann
- Ngày hôm qua đã tàn, ngày mai vẫn chưa tới. Nhưng tôi vẫn có một ngày hôm nay... Ngày mà tôi sẽ hạnh phúc! - Groucho Marx
Hỏi :
Ðạo Phật có gì khác biệt với các tôn giáo khác không?
-Sáu điểm đặc biệt ''khác đời'' của Phật Giáo là:
1/ một tôn giáo không quyền lực,
2/ một tôn giáo không nghi lễ
3/ một tôn giáo không tính toán, suy lường
4/ một tôn giáo không tập tục giáo điều
5/ một tôn giáo không có khái niệm về quyền tối thượng
và ân điển của một đấng Thượng-đế
6/ một tôn giáo không thần bí.
Một người hỏi Phật: “Ngài có phải là Thượng Ðế không?”.
Ðức Phật trả lời: “Không”.
“Là một bậc Thánh?”. “Không”.
Là một Thiên Thần?. “Không”.
“Vậy Ngài là người thế nào?”. Ðức Phật đáp: “Ta là người đã giác ngộ”.
Câu trả lời của đức Phật đã trở thành danh hiệu của Ngài, bởi đây là điều đức Phật đã thuyết bày.
Hỏi : Vậy Đức Phật giác ngộ cái gì?
Sau bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội bồ đề, Đức Phật đã tự thân chứng nghiệm nguyên lý duyên khởi, thấu rõ mối quan hệ hỗ tương của mọi sự vật hiện tượng, thấy rõ bản thể của nhân sinh vũ trụ. Nguyên lý duyên khởi nói rằng, tất cả hiện hữu trong thế giới bao la mênh mông này, không một hiện hữu nào có thể tồn tại một cách độc lập mà không nương tựa vào nhau. Sự nương tựa và tùy thuộc nhau để hình thành và tồn tại..vv là nguyên lý vận hành của vũ trụ nhân sinh.
Tiếng Vọng
Có một cậu bé ngỗ nghịch hay bị mẹ khiển trách. Ngày nọ giận mẹ, cậu chạy đến một thung lũng cạnh rừng rậm. Lấy hết sức mình, cậu thét lớn: "Tôi ghét người". Khu rừng có tiếng vọng lại: "Tôi ghét người".
Cậu bé hoảng hốt quay về, sà vào lòng mẹ khóc nức nở. Cậu không hiểu được từ trong khu rừng lại có người ghét cậu.
Người mẹ nắm tay con, đưa cậu trở lại khu rừng. Bà nói: "Giờ thì con hãy thét thật to: “Tôi yêu người”. Lạ lùng thay, cậu bé vừa dứt tiếng thì có tiếng vọng lại: "Tôi yêu người".
Lúc đó người mẹ mới giải thích cho con hiểu: "Con ơi, đó là định luật trong cuộc sống của chúng ta. Con cho điều gì, con sẽ nhận điều đó. Ai gieo gió ắt gặp bão. Nếu con thù ghét người thì người cũng thù ghét con. Nếu con yêu thương người thì người cũng yêu thương con vậy."
Giấc Thu
Mùa thu rong bước trên ngàn
Đừng theo chân nhé, trần gian muộn phiền!
Võng đong đưa một giấc thiền
Xua mây xuống đậu ngoài hiên ta bà.
Bóng tùng thấp thoáng xa xa
Nghe trong thinh lặng ngân nga chuông chùa
Vàng thu chiếc lá sang mùa
Theo sầu vạn cổ cũng vừa rụng rơi.
Nghiêng nghiêng nắng lụa bên đồi
Chiều qua chầm chậm bóng thời gian phai.
À ơi, cát bụi miệt mài
Ngủ đi, tâm niệm trần ai phiêu bồng !..
Như ngày thơ dại giấc nồng
Bên đời có ngọn từ phong vỗ về.
Nhân gian nay khép hẹn thề
Có người cho rằng, con người là một động vật kỳ lạ vì phải dành đến hàng chục năm để học mới có thể lo cho cuộc sống của mình ở mức trung bình. Điều này hoàn toàn khác với động vật khác khi hầu hết đều có thể tự lo cho cuộc sống của mình gần như ngay khi mới ra đời.
Theo tôi chính việc học là một phần của cuộc sống, để giúp con người chính là “người” khi xóa bỏ dần tàn dư “con” đeo bám suốt đời nhờ vào việc học. Ngẫm lại riêng cuộc đời mình đã trải qua 65 năm, tôi thấy mình đã dành phần lớn cho việc học nhưng gần như rất hiếm khi tự hỏi: “Học để làm gì, vì sao phải học?” Thời gian học tiểu học với tuổi đời còn qua nhỏ, học mà không biết để làm gì là chuyện thường tình. Nhưng suốt thời gian học trung học, tôi chỉ biết học vì mẹ tôi bảo phải thế và vì thấy bạn bè mình ai cũng phải học. Đến khi học đại học, nhờ thi đậu vào trường đại học dược khoa, tôi tự mình hình dung học để trở thành dược sĩ. Nghĩa là học để biết, để làm một nghề nuôi sống mình suốt cuộc đời sau này.
Nhìn lại nền giáo dục của nước Việt Nam trong thời gian qua ta thấy nhiều yếu kém. Đến độ phải đặt vấn đề “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Suy đi ngẫm lại muốn đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục trước hết phải trả lời câu hỏi rất hiếm người tự hỏi: “Học để làm gì, vì sao phải học?” Như tôi, sau 65 năm sống trên đời dành phần lớn cho việc học, nhờ đọc bài báo nói về bốn trụ cột của việc học, khi đó mới đặt ra câu hỏi cho riêng mình “Thật sự mình đã học để làm gì?”
Khi chuẩn bị bước vào thiên nhiên kỷ mới, thấy rằng học để làm gì thật sự là vấn đề rất lớn của mọi hoạt động giáo dục, cho nên Ủy ban Quốc tế về Giáo dục của Cơ quan Giáo dục, Khoa học và Văn hóa thuộc Liên hiệp quốc (UNESCO) đã công bố bốn trụ cột cho việc học dựa vào trả lời cho câu hỏi: “Học để làm gì?”. Theo UNESCO, học làm 4 việc sau, bốn tức 4 trụ cột của giáo dục theo tiếng Anh là: “learning to know, learning to do, learning to live together and learning to be” Dịch sang tiếng Việt, ba việc đầu là: học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác”, nhưng việc thứ tư thì ôi thôi, tiếng Việt mình phong phú quá, được dịch thành hàng lô việc như sau: học để xác lập mình, học để hoàn thiện mình, học để sống cho mình, học để khẳng định bản thân.
Riêng “học để khẳng định bản thân” có vẻ được chuộng nhất vì đã có một số trường học trương bảng hoành tráng hoặc sơn chữ to trước mặt tiền trường nêu bốn trụ cột: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định bản thân”.
Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”, trước đây đã được trang trọng phô trương ở các trường, nay vẫn giữ lại nhưng xem có vẻ khép nép nếu đứng cạnh bốn trụ cột đó. Nói là khép nép vì tính chất quá xưa cũ so với hiện đại nhưng “Tiên học lễ, hậu học văn” vẫn còn lý do tồn tại vì tình trạng xuống cấp của đạo đức xã hội vẫn nhan nhãn trong cuộc sống.
“Học để biết, học để làm, học để chung sống với người khác” dịch từ ba trụ cột việc học của UNESCO có thể xem tạm ổn. Ngẫm lại từ cuộc đời mình, suốt thời gian đi học, tuy không đặt ra câu hỏi: học để làm gì? nhưng tôi thật sự mường tượng học để biết. Tôi đã học nhiều môn học để kiến thức hiểu biết về thế giới, về cuộc sống xung quanh, về đất nước dân tộc mình ngày càng tăng trưởng. Về học để làm, học để chung sống phải đợi đến lúc bước chân vào đại học cũng thế, tức không đặt ra câu hỏi để làm gì, tôi cũng mường tượng việc học ở giai đoạn nay là để biết, để làm những việc của một dược sĩ hành nghề sau này và học để chung sống với người bệnh cần dùng đến thuốc, với các đồng nghiệp tiếp xúc hằng ngày và với cả xã hội cần khỏe mạnh về thể chất và tinh thần.
Còn việc sau cùng nếu gọi là học để khẳng định bản thân hay học để xác lập mình, học để sống cho mình dịch từ trụ cột thứ tư việc học của UNESCO thì tôi thấy không ổn. Vì sao như vậy? Chính các từ như “khẳng định”, “xác lập”, “sống cho mình” rất dễ tôn sùng “cái tôi” đưa đến bóp méo, làm sai lệch mục đích của việc học. Trên con đường phát triển, con người luôn luôn hiện hữu với “cái tôi” xấu xí.
Thoát thai từ một động vật, con người dính liền với bản năng luôn phóng chiếu của đủ loại dục vọng. Đơn cử, một nhu cầu động vật trong con người là luôn mong muốn an toàn, an toàn về thể chất và an toàn về tinh thần - tâm lý và thường vì sự an toàn đó mà bất kể lợi ích của tha nhân. Từ đó con người sinh ra tham lam, đố kỵ, tị hiềm… trong quan hệ với nhau.
Suốt quá trình tồn tại và phát triển, con người gây ra biết bao tàn nhẫn, khổ đau cho mình và cho người xuất phát từ “cái tôi” luôn muốn được bành trướng phóng hiện, cái “bản ngã” chứa quá nhiều dục vọng. Có người nói: “Con người tự do phải là đích đến của giáo dục”. Thật ra, con người tự do không phải là con người sống bất kể các quy luật hài hòa của cuộc sống và các định chế cần thiết của xã hội, mà con người tự do phải là con người giải thoát khỏi những dục vọng thấp hèn, giải thoát khỏi “cái tôi” gắn với “con” thay vì “người”. Chính vì vậy, một mục tiêu của việc học phải là làm cho con người tự do, tức trở thành “vô ngã” để làm chủ được mình, giải phóng mình khỏi tham sân si, kiểm soát mình để không nô lệ vào “cái tôi” thấp hèn nhưng ma mảnh, quỷ quyệt. Điều kiện tiên quyết để con người “vô ngã” là con người phải thấu hiểu “cái tôi” ma mảnh quỷ quyệt, cái “bản ngã” do nhu cầu động vật cứ hướng về sự thấp hèn.
Từ cột trụ “learning to be” có nghĩa là “học để sống” mà dịch thành “học để khẳng định bản thân”, “học để xác lập mình” hay “học để sống cho mình” dễ đi đến học để khẳng định, xác lập “cái tôi” ma mảnh, “cái tôi” bao hàm “con” hơn “người”. Có người dịch cột trụ thứ tư là “học để hoàn thiện mình” chính là để không nhập nhằng với cái tôi đáng ghét mà hướng đến sự hoàn thiện nhờ giáo dục. Tuy nhiên, như thế lại không lột tả được nghĩa của “to be”.
Sau khi phân tích như trên, tôi mạo muội đề nghị cột trụ thứ tư của việc học là “học để sống và hiểu bản thân”. Toàn bộ bốn cột trụ việc học theo UNESCO theo tôi là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để sống và hiểu bản thân”. Chính trụ cột “học để sống và hiểu bản thân” sẽ làm cho ba trụ cột kia càng rõ nghĩa.
Ở nước ta, mục đích học để làm quan đã ăn sâu vào tâm não dân ta rất lâu rồi, cho nên cho đến nay “học để biết, học để làm” vẫn là tập trung học để nhồi nhét thật nhiều kiến thức và làm thì qua loa và cũng chỉ để thi (để được làm quan mà). Học để biết, để làm xem kỹ lại chính là “học để thi”. Rõ ràng khi mọi người từ dạy đến học, thấm nhuần “học để sống và hiểu bản thân”, sẽ thấu hiểu nguyên nhân của sự biến dạng “học để biết, học để làm” thành “học để thi” chỉ vì “cái tôi” tham lam, chạy theo mong cầu không chính đáng. Khi quan hệ mình với bản thân mình được thấu hiểu để có sự phản tỉnh, khi đó bản thân được tỉnh ngộ. Thế là người ta sẽ chuyển hóa để việc học là học để biết để làm thật sự chứ không phải chỉ để thi.
Còn “học để chung sống với người khác” ở nước ta thì như thế nào?. Trong thời gian dài, ở ta chính khẩu hiệu “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” đã trở thành nền tảng cho việc học để chung sống với người khác. Mình vì mọi người nhưng bản thân mình không hiểu chính mình. Mình không hiểu là mình luôn luôn bị “cái tôi” thiên về “con” khống chế, kiểm soát, thôi thúc để luôn xảy ra cảnh trạng “mình vì mọi người một cách ma mảnh dối trá, ngược lại, mọi người vì mình với bản thân mình luôn tìm cách phóng đại, bành trướng”.
Chính “học để sống và hiểu bản thân” sẽ là tiền đề vững chắc để “học để chung sống với người khác” chính là “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thực hiện một cách hoàn thiện. Chỉ khi đó, việc học để chung sống với người khác mang tính chất “vô ngã” tức sống chung với người khác mà không bị “cái tôi” xấu xí chen vô quấy rầy.
Các cụ nhà ta vẫn thường có câu “một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, trên thực tế cười có rất nhiều lợi ích không chỉ về mặt tinh thần mà còn giúp nâng cao thể chất. Tuy nhiên theo một nghiên cứu khoa học mới đây thì sự thật lại không phải như vậy, nếu cười quá nhiều có thể còn gây hại cho sức khỏe của bạn.
Nó thực sự không tốt nếu bạn cười một cách giả tạo, cười ngay cả khi bạn đang cảm thấy buồn chán. Khi một ai đó cố gắng mỉm cười chỉ vì nghĩ rằng như vậy sẽ tốt hơn, hay khi họ muốn che giấu cảm xúc thật sự của mình, thì kết quả lại hoàn toàn ngược lại. Do đó cũng có thể nói một nụ cười là tốt hay xấu hoàn toàn phụ thuộc và động lực đằng sau nó.
Phó giáo sư Anirban Mukhopadhyay tại đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông cho biết “thông thường mọi người mỉm cười khi họ cảm thấy hạnh phúc, nụ cười là sự phản ánh của niềm vui.
Tuy nhiên đôi khi con người cũng cười để tự đánh lừa bản thân mình, họ nghĩ như vậy sẽ tạo động lực để vượt qua nỗi buồn hay điều tương tự, hoặc đôi khi họ không muốn người khác thấy cảm xúc của mình”.
Trong nghiên cứu này, Mukhopadhyay và các nhà khoa học cộng sự của mình đã tiến hành hai thử nghiệm. Trong thử nghiệm đầu tiên, 108 người được mời tham gia một cuộc điều tra. Họ được yêu cầu phải cười nhiều nhất có thể mà không có tác động gì từ bên ngoài, những người tham gia cũng phải trả lời bảng câu hỏi về mức độ hài lòng với cuộc sống của họ.
Trong thử nghiệm thứ hai, các nhà nghiên cứu chọn ra 63 người trong đó và cho họ xem những hình ảnh hài hước. Những người tham gia được yêu cầu mỉm cười nếu họ thực sự thấy những hình ảnh đó là hài hước, trong lần thử nghiệm này họ không bị ép phải cười.
Sau đó, các nhà khoa học đã tiến hành phân tích kết quả của hai cuộc thử nghiệm trên. Họ kết luận rằng những người không thường xuyên mỉm cười có phản ứng tiêu cực và cảm thấy không vui vẻ khi bị bắt phải mỉm cười, trong khi đó những người thường xuyên cười cảm thấy vui vẻ hơn khi tham gia hai cuộc thử nghiệm trên.
Mukhopadhyay cho biết “Những người hay cười là do họ có tính cách vui vẻ, họ rất hay cười với những điều thú vị xảy ra trong cuộc sống, vì thế nụ cười có tác dụng tốt đối với họ".
Trong khi đó, những người không thường xuyên mỉm cười là do tính cách của họ như vậy, do đó một nụ cười đối với họ chỉ là nỗ lực để cảm thấy hạnh phúc hơn. Nhưng thực tế nó đem lại các cảm giác tiêu cực”.
Nghiên cứu của giáo sư Anirban Mukhopadhyay đã được đăng trên tạp chí Tâm lý học xã hội.
Tội Trần - Áp Dụng Thuyết Nhân Quả Để Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn
Bài viết rằng:
Nếu như ngày nay chúng ta được hạnh phúc, những mối quan hệ được tốt đẹp thì chúng ta phải nên hiểu rằng đó là kết quả của những việc làm thiện mà chúng ta đã vun trồng với những người ngoài ta đến ngày trổ hoa.
Chúng ta từ khi chào đời đến nay gặp rất nhiều người và có mối quan hệ chằng chịt. Cha mẹ, ông bà, cô, dì, chú, bác v.v…
Đôi khi chúng ta có những điều ước thật ngây ngô chẳng hạn như: “Ước gì mình sinh ra trong gia đình kia có phải hạnh phúc biết bao nhiêu không?”.
Vậy tại sao ta lại sinh ra trong gia đình hiện tại mà không phải gia đình khác? Hãy nhìn những người sắp từ trần, họ có mang theo được cái gì chăng? Vợ con, của cải đều không thể mang đi.
Sinh ra vốn không có gì và chết đi cũng như vậy. Nhưng thực chất họ có mang theo hai thứ; tội và phúc. Nói theo quan điểm nhà Phật đó là nghiệp thiện và nghiệp ác.
Người xưa có chuyện đem hai cái hũ để đựng đậu, làm việc lành bỏ 1 hạt đậu đỏ, làm việc ác bỏ một hạt đậu đen để kiểm nghiệm việc chúng ta làm. Nếu như chúng ta làm nhiều việc ác hũ đậu đen sẽ đầy tràn. Gieo gió phải gặt bão.
Nếu như ngày nay chúng ta được hạnh phúc, những mối quan hệ được tốt đẹp thì chúng ta phải nên hiểu rằng đó là kết quả của những việc làm thiện mà chúng ta đã vun trồng với những người ngoài ta đến ngày trổ hoa.
Ngược lại chúng ta đau khổ, bởi những người xung quanh thì phải nên hiểu là đó là nghiệp ác, nhân xấu đến ngày trổ quả.
Có một ví dụ rằng: Nếu một người mắc nợ ai đó tiền thì trước sau người đó cũng phải trả, nhưng nếu người mắc nợ càng trả sớm thì càng nhẹ nhàng và nếu người mắc nợ trả muộn bao nhiêu thì lãi mẹ đẻ lãi con, hậu quả khôn lường.
Nếu chúng ta rơi vào cảnh khổ đau mà chúng ta không nhẫn nhịn, chúng ta vùng vẫy, nhờ thế lực bên ngoài để mong thoát khỏi trong giây lát hiện tại thì tương lai chúng ta vẫn phải rơi vào cảnh đó.
Có những người rơi vào cảnh khổ đau họ tìm đến cái chết để giải thoát nhưng không ngờ sau khi chết họ còn tồi tệ hơn. Vậy khi chúng ta khổ đau, chúng ta nên làm gì?
Hãy chấp nhận nó như là rút tiền từ túi ra trả nợ vậy, tuy rằng rút tiền từ túi ra cũng rất xót nhưng thà rằng trả sớm còn hơn để kéo dài .
Và vấn đề quan trọng là hãy làm việc thiện để dành chút tư lương cho tương lai giống như trong túi ta có 10 đồng, trả nợ hết 8 đồng thì hãy làm thế nào để 2 đồng còn lại sinh lời và trở thành 10 đồng và thậm chí 100 đồng trong thời gian tới.
Ngược lại nếu chúng ta đang sung sướng hạnh phúc, đừng quên làm việc thiện để dự trữ, biết đâu trong tương lai ta cần đến chúng. Tục ngữ có câu: “Được mùa chớ phụ ngô khoai, đến khi thất bát biết ai cậy nhờ”.
Khi ta hiểu vấn đề này rồi, chúng ta thấy những mối quan hệ trở nên thoải mái và dễ sống hơn, cốt lõi ở mình, sống đôi khi để làm những việc thiện trổ hoa và bên cạnh đó có thể sống để trả nghiệp.
Khi ta hiểu ra lý nhân quả rồi, mọi việc đến với ta thật nhẹ nhàng. Và tiền bạc cũng vậy!
Khi nói đến an lạc, trước phải nói đến đau khổ. Nếu nói an lạc suông, quí vị lại tưởng là mình thảnh thơi lắm, rồi không cố gắng tu hành.
Vì vậy khi chúc quí Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc, chúng tôi sẽ nói rõ nguồn gốc đau khổ của con người hiện tại và vị lai. Nếu biết được nguồn gốc đau khổ, mình nhổ phăng bứt gốc bứt rễ nó lên thì an lạc sẽ đến, an lạc thật sự.
Tất cả Phật tử chúng ta là con Phật phải nhìn thấy đúng như cái nhìn cái thấy của đức Phật. Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật thấy rõ được bản chất của con người như thế nào, Ngài đem ra chỉ dạy để chúng ta thức tỉnh biết rõ được con người mình. Khi biết rõ được con người mình thì chúng ta mới biết làm sao để hết khổ và làm sao để đến an lạc thật sự, đó là gốc của sự tu. Nếu chúng ta không biết bản chất của mình là vui hay khổ cứ sống lây lất qua ngày, đua đòi theo những hình thức vật chất, chúng ta phải tạo nghiệp thọ khổ, chẳng những đời này mà còn kéo dài không biết bao nhiêu kiếp nữa. Vì lòng từ bi, đức Phật muốn cho mọi người hết khổ, nên trước tiên Ngài chỉ rõ nguồn gốc đau khổ. Thấy được nó, chúng ta mới có thể đào bới nó lên được. Nếu không thấy nó, chúng ta muốn cầu vui mà cái vui không bao giờ đến, vì chúng ta có biết cái khổ đâu mà bới lên. Thành ra muốn vui mà con người cứ khổ, cái khổ cứ tràn tới mãi mãi. Chính con người ở thế gian đang là như vậy, lúc nào cũng chúc mừng nhau năm mới được an vui hạnh phúc, nhưng đến cuối năm quí vị thấy có an vui hạnh phúc không? Luôn luôn chúc nhau an vui hạnh phúc mà kết quả lại không có an vui hạnh phúc chi hết, mà trái lại nhiều khổ đau, nhiều bực bội. Chúc như vậy chỉ là chúc suông thôi. Ở đây chúng tôi muốn quí Phật tử thật sự sang năm này là một năm quí Phật tử tạo nên một cội nguồn của sự an lạc. Muốn tạo nên cội nguồn an lạc đó trước tiên quí Phật tử phải biết nguồn gốc đau khổ là cái gì? Biết được nó rồi chúng ta mới có thể bứng gốc bứng rễ nó để thành an lạc.
Nguồn gốc đau khổ là cái gì? Trong đạo Phật, lúc nào đức Phật cũng muốn chỉ cho mọi người thấy được lẽ thật của kiếp sống con người. Chúng ta cứ tìm những điều quanh quẩn bên ngoài mà những điều đó dù chúng ta thấy được lẽ thật của chúng, cũng là lẽ thật bên ngoài thôi; còn bản thân chúng ta chưa biết chưa thấy đó là một khuyết điểm lớn lao. Vì vậy đức Phật nói rõ bản chất của con người là khổ hay vui? - Khổ! Vừa nghe thoáng qua chúng ta cảm thấy bi quan, nhưng đó là sự thật.
Vì sao bản chất con người là đau khổ? Đức Phật dạy đau khổ chia ra hai phần:
1. Đau khổ do sự cảm thọ.
2. Đau khổ do lòng tham ái. Như vậy chúng ta cần xác định lại kiếp sống con người là đau khổ, chớ không phải là an vui. Đức Phật dạy những đau khổ của con người là do:
Chúng ta ở trên thế gian này thật là khổ. Trong cuộc sống quí vị muốn một trăm điều, kết quả được bao nhiêu? Nhiều lắm là hai chục điều thôi tức là có hai chục phần trăm được như ý. Đó là tôi nói ưu đó, có khi còn chưa được như vậy nữa! Còn tám chục phần trăm là bất như ý, tức là không toại nguyện, mà không toại nguyện là đau khổ. Nhìn tổng quát, đức Phật nói cuộc đời con người là đau khổ, sanh là khổ. Đó là cái khổ thứ nhất. Già có khổ không? Có ai nói già mà vui đâu! Già thì thân thể yếu gầy bệnh hoạn, rồi răng rụng da nhăn, chân mỏi gối dùn, đi đứng lụm cụm, đủ chuyện phiền hà, nên nói già là khổ. Bệnh có vui không? Bệnh là khổ rồi, không ai chối được.
Còn chết thì sao? Là đại khổ! Như vậy thử kiểm lại ở trần gian này, có người nào thoát khỏi sanh lão bệnh tử hay không? Ai cũng sanh ra rồi già đi, ai cũng phải bệnh hoạn rồi cuối cùng là chết. Không một ai thoát khỏi bốn điều này, cho nên nói kiếp người đau khổ là như vậy.
Đến ái biệt ly: thương mà xa lìa. Những người mình thương rất là thương mà xa lìa, có gì khổ cho bằng! Có người nào khỏi xa lìa thân nhân mình đâu, thân nhất là cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè, có lúc cũng phải xa lìa. Như vậy gọi là ái biệt ly khổ. Oán tắng hội khổ: ghét mà gặp mặt nhau cũng khổ. Những người mình không thích, không muốn thấy mặt mà cứ ở ngay trước mắt mình hoài thì làm sao vui được! Cầu bất đắc khổ: mong cầu mà không được như ý cho nên khổ. Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu hợp thành thân này, luôn luôn chống đối, bất an cho nên đau khổ. Tám điều khổ vừa kể trên, chúng ta đều phải đa mang suốt cuộc đời, không thiếu sót một điều nào. Có ai khỏi sanh già bệnh chết? Có ai không xa lìa người thương, không gặp gỡ người mình ghét? Có ai cầu điều gì được điều nấy đâu? Tám điều khổ của con người là sự thật, không chối cãi được. Đau khổ là một lẽ thật không làm sao tránh được, nó luôn luôn theo dõi ép ngặt khiến chúng ta bất an. Nếu có gượng cười gượng vui, chỉ trong giây lát rồi cũng khổ. Ví dụ như khi gặp bạn bè vui tươi chốc lát, đến lúc về nhà đau chân, mỏi lưng… cảm thấy khổ thân. Như gặp người thân thì mừng rỡ, nhắc lại người xa cách thì than khóc. Gặp người mình thích thì tươi cười, gặp người mình ghét thì bực bội. Cả ngày vui buồn thay đổi luôn luôn, điều vui thì ít, đau khổ thì nhiều. Bản chất con người là đau khổ. Đức Phật gọi đó là Khổ đế: Khổ là một lẽ thật không chối cãi được. Tám điều khổ do đâu mà ra? Gốc từ cảm thọ mà ra. Cảm thọ chia ra làm hai phần:
1. Cảm thọ sai biệt của sáu căn rồi chấp nê sanh đau khổ.
2. Cảm thọ do đuổi theo thú vui rồi giành giật sanh đau khổ.
Vì sao cảm thọ sai biệt của sáu căn gây nên đau khổ? Chúng ta ai cũng có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn này có những cảm thọ ngoại cảnh không giống nhau.
Thí dụ như mắt chúng ta nhìn thấy sự vật, nếu vị nào có con mắt nghệ thuật, khi nhìn bình hoa đặt trên bàn thì trầm trồ khen hoa trưng đẹp mắt. Nhưng một người khác không có mắt nghệ thuật nhìn mấy nhánh hoa lưa thưa ngả nghiêng không có gì đẹp cả. Người bảo đẹp, người cho là xấu, hai người không đồng ý nhau rồi sanh bực tức tranh cãi. Con mắt xúc chạm với sắc trần, người thấy đẹp, người thấy xấu là do cảm thọ sai biệt mà ra. Như vậy ai đúng? Nếu không ai đúng thì sao lại tranh cãi? Thật là vô lý. Mỗi người có cái thấy không giống nhau. Do cái thấy khác nhau, rồi không đồng ý với nhau nên sanh cãi rầy. Nguyên do là vì chúng ta không có nhận xét đúng đắn.
Đến cảm thọ sai biệt của lỗ tai. Thí dụ hai ba người bạn ngồi chơi, một người kể chuyện phải quấy trong xóm, rồi nói: Những người nghèo thật đáng thương. Người bạn khá giả nghe nói như vậy thì vẫn bình tĩnh, trong khi người bạn nghèo cho rằng mình bị khinh khi. Cùng nghe một câu chuyện, mà một người thì không bị xúc phạm, còn một người thì bị tự ái, bị mặc cảm. Lời nói có giá trị bằng nhau, nhưng khi nghe rồi sự cảm thọ khác nhau, nên sanh vui buồn khác nhau. Một người cho rằng không có chỉ trích người nghèo, một người cho rằng mình nghèo nên bị khinh khi, hai người không đồng ý nhau nên sanh cãi vã. Đó là do sự cảm thọ sai biệt của lỗ tai.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.