ĐIỆP-MỸ-LINH
Đang tưới mấy chậu hoa trên sân thượng, tôi nghe tiếng chân người chạy thật nhanh từ phía cầu thang. Quay lại nh́n, tôi thấy bà giúp việc đang đưa tay vuốt ngực, thở gấp và nói đứt đoạn:
- Thưa…cô…c…o…ó…điệ…n… thoại.
V́ vội vàng, tôi xách luôn b́nh nước tưới cây, vừa chạy đến cầu thang vừa hỏi:
- Ai vậy, d́ Năm?
- Dạ…ông.
Vừa nói bà Năm vừa quay người chạy theo tôi và đưa tay xách b́nh nước từ tay tôi.
Mấy hôm nay tôi gần như sống trong sự khủng hoảng nào đó, không lúc nào tâm hồn được yên. Mỗi lần chuông điện thoại reng, tôi giật ḿnh, hồi hộp, thở không đều. Bây giờ chạy từ lầu ba xuống, tôi thở nặng nhọc như một tay đua vừa chạy giáp ṿng sân Cộng-Ḥa. Vừa chụp ống nghe, chưa kịp nói “allo”, tiếng Minh đă vang lên từ đầu giây bên kia:
- Làm ǵ mà thở dữ vậy, cô nương?
Nghe Minh vẫn diễu cợt b́nh thường, tôi hỏi ngược lại::
- Có tin ǵ khác không, anh?
- Có…
Minh hơi ngập ngừng. Tôi lắng nghe nhưng Minh không nói tiếp. Ngỡ rằng Minh đang bận nói ǵ với ai, tôi chờ một chốc rồi dục:
- Allo! Anh đang bận, phải không?
- Không. Anh nghe đây.
- Sao đang không anh im lặng vậy?
- Thôi, để anh về anh nói cho nghe.
- Th́ nói bây giờ đi.
Sau một thoáng im lặng, Minh hỏi:
- Em c̣n giữ ư định t́m phương tiện về ngoài đó hay không?
- Em phải về.
- Anh hiểu.
Minh ngưng. Dường như có tiếng thở dài nhè nhẹ. Một chốc, Minh tiếp:
- Anh về bây giờ.
Giọng Minh có chút ǵ là lạ.
Sau khi gác ống điện thoại, tôi chợt nhớ đến Trí, một sĩ quan Không-Quân đă hứa sẽ t́m phương tiện cho tôi về đem gia đ́nh vào Saigon. Tôi quay số. Bà Trí bắt ống nghe. Tôi nhắc bà về lời hứa của Trí. Bà Trí bảo tôi chờ. Dường như bà Trí đang bịt ống nói để nói ǵ với Trí, tôi chỉ nghe lao xao. Một lúc sau, giọng Trí có vẻ ngạc nhiên:
- Chị Minh! Chị chưa nghe ǵ hết sao?
- Dạ, nghe ǵ, anh?
- Nha-Trang mất rồi!
Tưởng ḿnh nghe lầm, tôi hỏi, giọng hơi lớn:
- Dạ, anh nói ǵ, anh Trí?
- Nha-Trang mất rồi, bà ơi! Tôi tưởng anh Minh cho chị hay rồi chứ.
Tôi thẩn thờ một lúc rồi “rơi” vào ḷng ghế xa-lông, đầu óc trống rỗng. Ngoài những người ruột thịt, tôi c̣n dấu trong khung trời Nha-Trang những nhiệm mầu của tuổi thơ, những xót xa của kỷ niệm và nhiều đắng cay của cuộc t́nh. Từng này tuổi, nếu phải mất ngần ấy yêu thương th́ hồn tôi sẽ thành một băi vắng mênh mông!
Không nghe tôi nói ǵ, Trí tiếp:
- Thôi, chị à! Tôi quư chị lắm, nhưng tôi khuyên chị là…hết rồi! Chị không nên liều mạng như vậy.
Tôi khẩn khỏan:
- Dù chuyến bay chót cũng được, anh Trí à. Tôi sẽ t́m phương tiện trở về sau.
- Bây giờ chỉ c̣n những chuyến trực thăng ra đến Cam-Ranh thôi. Nhưng tôi cũng không thể để chị đi những chuyến đó; bởi v́ chưa biết ḿnh c̣n giữ được Cam-Ranh bao lâu nữa! Đă đành gia đ́nh là quan trọng, nhưng chị c̣n chồng c̣n con của chị nữa chứ, chị quên sao?
- Dạ, tôi biết. Nhưng các cháu có anh Minh lo; c̣n gia đ́nh của tôi ngoài đó không ai lo được ǵ cả.
- Bộ chị không sợ Việt-Cộng hay sao mà tới giờ này c̣n đ̣i bay về ngoài đó?
Trí chuyển đề tài bất ngờ khiến tôi hơi lúng túng:
- Dạ…dạ…
Tôi nghe giọng bà Trí nói chi đó rồi Trí cười lớn từ đầu giây bên kia. Chỉ một thoáng thôi, giọng Trí trở nên hấp tấp:
- Allo! Allo! Chị c̣n đó không? Xin lỗi chị, tôi cười hơi lớn v́ bà xă tôi nói tôi “cà chớn”, nhè chị mà hỏi có sợ Việt-Cộng hay không.
Tôi cũng cười, chưa biết cách nào trở lại đề tài xin trực thăng đi Nha-Trang th́ Minh đẩy cửa, bước vào. Tôi đưa tay che ống nói rồi nói với Minh:
- Anh Trí.
- Trí nào?
- Anh Trí Không-Quân.
Minh “a” lên một tiếng rồi đi thẳng lên lầu. Trí hỏi:
- Anh về, phải không, chị?
Tôi “Dạ”. Trí đổi giọng thân mật:
- Thôi, xong rồi. Bà lo cho ông ấy đi. Không đi đâu nữa cả, có ǵ ân hận lắm đó, bà.
Sau khi gác điện thoại, tôi như kẻ mất hồn. Nếu Trí không gửi tôi theo các chuyến bay ra Trung th́ đâu c̣n ai bên Không-Quân tôi có thể nhờ được. C̣n Hải-Quân, giờ này có lẽ đâu c̣n chiếc nào tại bến mà nhờ! Tôi thở dài, tính vào bếp phụ dọn cơm th́ Minh từ trên lầu đi xuống:
- Trí cho em hay rồi, phải không?
Tôi nh́n ra khung cửa lưới. Vạt nắng mong manh trên khóm hoa giấy trước sân khiến tôi nhớ Nha-Trang vô vàn! Tôi như muốn khóc, “dạ” nho nhỏ, trả lời câu hỏi của Minh. Minh ngồi vào xa-lông, gương mặt cũng chẳng vui ǵ. Một lúc lâu, Minh hỏi:
- Em c̣n muốn về ngoài đó không?
- Dạ. Nhưng anh Trí bảo không giúp được. C̣n tàu, anh thấy có chiếc nào đi ra Trung nữa không?
- Có. Nhưng tới Phan-Rang thôi.
Tôi sáng mắt lên:
- Vậy cũng được. Chiếc nào vậy, anh?
- 505.
- 505 là chiếc nào?
- LST Nha-Trang.
Nha-Trang! Tuy không được sinh trưởng tại Nha-Trang, nhưng âm hưởng nhẹ nhàng của hai tiếng Nha-Trang lúc nào cũng như một ràng buộc vô h́nh vào đời tôi.
- Ai là Hạm-Trưởng, anh?
Minh cười, ánh mắt tinh nghịch:
- Nhượng đó.
Không dấu được vui mừng, tôi reo lên:
- A, anh Nhượng khóa 9 đó hả? Anh xin anh ấy cho em quá giang đi.
Minh giả vờ lườm tôi, môi hơi mỉm cười. Tôi cũng cười, ngó lơ ra khóm hoa giấy ngoài sân để tránh ánh mắt tinh quái của Minh. Vạt nắng đă tắt, tưởng không c̣n ǵ gợi nhớ, nhưng hai tiếng “Nhượng đó” của Minh khiến tôi nghĩ nhiều đến người bạn xưa mà cả Minh và tôi đều quen thân và quư mến. Bỗng dưng tôi như cảm nhận được thoang thoảng đâu đây hương Nuit d’Orient ngọt ngào, rồi cánh bướm xanh lấp lánh trên nhánh mai vàng đầy nụ.
Thấy tôi có vẻ suy tư, Minh đứng lên, cắt ngang ḍng ư tưởng của tôi:
- Đi ăn cho rồi, cô nương, ở đó mà mơ mộng.
Trong bữa cơm chiều, Minh bàn tính về chuyến “mạo hiểm” của tôi. Minh liên lạc với hai người đàn ông mà gia đ́nh của họ cũng kẹt lại Nha-Trang, bảo họ đi với tôi để lo và giúp đỡ tôi.
Chiều hôm sau Minh đưa cả ba chúng tôi sang Thành Tuy-Hạ; v́ Dương-Vận-Hạm Nha-Trang, HQ 505, đang nhận đạn tại đây.
Trên boong chiến hạm, tôi gặp lại Trung-Úy Trần Há – người đă lội nát vùng U-Minh trong thời gian anh phục vụ tại Giang-Đoàn 26 Xung-Phong. Tôi nghe tiếng Há phàn nàn nho nhỏ với Minh:
- Giờ phút này mà Commandant để chị đi làm chi, Commandant?
Minh lắc đầu:
- Hồi ở Giang-Đoàn 26 “toa” c̣n lạ ǵ tính cương quyết của bả. Thôi, có ǵ “toa” lo cho bả giùm. “Moi” đă nói với Hạm-Trưởng Nhượng rồi.
Nói xong Minh vội vàng rời chiến hạm, v́ tàu vừa vào nhiệm sở vận chuyển. Nh́n theo chiếc Jeep lẫn khuất trong đám bụi mờ, tôi bâng khuâng tự hỏi, không biết tôi c̣n gặp lại Minh nữa hay không! Cần “ăng-ten” cao vút rún rẩy phía sau chiếc Jeep khiến tôi nhớ đến đứa con gái thứ hai của tôi đang nội trú tại trường Régina Pacis. Khi nào thấy chiếc Jeep có “ăng-ten” cao cháu cũng nói: “Con ghét mấy cái xe có cần câu đó lắm.” Nếu ai hỏi lư do, cháu sẽ đáp: “Tại nó làm con nhớ Ba”. Chút ray rứt này đột nhiên làm tôi hối hận về quyết định của tôi. Ḷng tôi chùng xuống! Tôi đang nén tiếng thở dài th́ giọng Há vang lên từ cửa thông vào pḥng ăn sĩ quan:
- Chị vào nghỉ, sắp sửa dùng cơm rồi, chị.
Tôi xách cái xắc cũ mèm, bên trong đựng vài bộ đồ tây không c̣n hợp thời trang – Minh bảo ngụy trang như vậy để nhỡ có ǵ xảy ra, thiên hạ khó biết ḿnh thuộc vào thành phần nào, đỡ nguy hiểm – bước vào pḥng ăn.
Tôi ngồi vào xô-pha, nh́n các sĩ quan từ từ kéo nhau vào, ngồi quanh bàn ăn, theo thứ tự thâm niên kể từ chiếc ghế dành riêng cho Hạm-Trưởng. Tôi nhận ra Khánh, em của một nhà văn Không-Quân. Tôi hỏi thăm Khánh về “ông anh nhà văn”. Khánh kể cho tôi nghe về cái chết của ông ấy. Tôi không ngờ những ngày cuối cùng của nhà văn ấy bi thảm đến như vậy! Nói chuyện một lúc, Khánh nhắc đến Nha-Trang với những ngày anh em của Khánh c̣n theo học trường Thống-Nhất. Tôi tuy là “dân” Vơ-Tánh, nhưng v́ có ư định theo ban “B” cho nên mỗi mùa Hè tôi thường học thêm Toán-Lư-Hóa tại các trường tư; nhờ vậy câu chuyện giữa Khánh và tôi trở nên lôi cuốn v́ chúng tôi khơi lại kỷ niệm xưa.
Nói chuyện xưa một lúc, Khánh chợt đổi đề tài, kể cho tôi nghe về những hải tŕnh mà Dương-Vận-Hạm Nha-Trang HQ 505 đă vượt qua trong thời gian di tản miền Trung. Trong câu chuyện, thỉnh thoảng Há và những sĩ quan khác cũng góp thêm nhiều chi tiết mà chỉ nghe không thôi, tôi cũng cảm thấy kinh hoàng! Và, sau cuộc rút quân ở Chu-Lai, Dương-Vận-Hạm Nha-Trang HQ 505 mang biệt danh là Con Tàu Máu!
Câu chuyện sắp đến đoạn ủi băi Chu-Lai th́ Hạm-Phó bước vào. Hạm-Phó ngồi vào ghế đầu bàn, góp chuyện với chúng tôi. Trong khi câu chuyện giữa chúng tôi đang “nổ” ḍn, nhà bếp vẫn âm thầm dọn lên bàn một bữa ăn rất đạm bạc.
Các sĩ quan đang cười, nói huyên thuyên bỗng im bặt v́ Hạm-Trưởng vừa bước vào. Tất cả - trừ tôi - đứng lên chào Hạm-Trưởng. Nhượng nh́n tôi, mỉm cười, rồi mời tất cả sĩ quan ngồi xuống.
Thấy bữa ăn chiều trên chiến hạm HQ 505 tôi mới nghiệm ra một điều: Những người đi tàu giữ đúng nghi thức và truyền thống Hải-Quân hơn những người ở đơn vị tác chiến.
Mặc dù đă tham dự không biết bao nhiêu buổi tiếp tân trên chiến hạm, cũng như trong câu-lạc-bộ Hải-Quân, không bao giờ tôi để ư đến cách thức Hải-Quân sắp chỗ ngồi. Bây giờ tôi mới thấy chiếc ghế bên phải của Nhượng c̣n trống. Nhượng mời tôi dùng “cơm lính”. Tôi cười:
- Cơm lính ǵ, mấy anh ăn sang quá; cơm giang đoàn mới đúng là cơm lính đó, anh.
Vẫn tính ít nói như xưa, Nhượng chỉ cười. Khánh bảo:
- Chị thiên vị lính giang đoàn rồi đó.
Tôi nh́n Khánh rồi nh́n Há:
- Đâu có. Anh hỏi anh Há xem, lính giang đoàn cực lắm.
Nhượng đưa tay về phía ghế trống, mời tôi một lần nữa:
- Mời chị.
Lúc này tôi mới chợt nhớ, vội lắc đầu:
- Dạ, cảm ơn anh, nhưng tôi xin lỗi, tôi ăn chay.
Nhượng tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Thế à? Để tôi bảo nhà bếp làm cơm chay cho chị. Mời chị ngồi đây.
Nhượng đưa tay hơi nhích chiếc ghế trống ra một tư. Tôi đứng lên, đi dần ra cửa:
- Dạ, cảm ơn anh. Tôi xuống bếp xin chút x́-dầu.
Tuy nói như vậy, nhưng khi vào bếp, tôi nhờ anh nhà bếp ra thưa với Nhượng là tối tôi mới ăn; xin anh nhà bếp để dành cho tôi ít cơm và x́-dầu. Sau đó tôi ra trước mũi chiến hạm, ngồi lặng lẽ, nh́n ḍng sông Saigon uốn khúc trong hoàng hôn chập chùng.
Ngoài những lần viếng thăm tiềm-thủy-đỉnh hoặc những chiến hạm của Hải-Quân Hoa-Kỳ, đây là chuyến hải hành đầu tiên của tôi trên một chiến hạm của Hải-Quân Việt-Nam.
Từ boong tàu nh́n xuống mặt sông, khoảng cách quá xa, khiến tôi nhớ và thèm một mảnh không gian nho nhỏ trong ḷng chiếc Fom. Từ chiếc giường treo, lom khom chui ra phía sau của chiếc Fom, tôi chỉ cần hơi khom xuống một chút là có thể dùng tay khỏa mặt nước mát rượi hoặc níu một nhánh bèo có những nụ bông tím.
Gió lồng lộng. Trong âm thanh lao xao mơ hồ từ hai bên bờ sông và tiếng máy tàu vi vu, tôi thấy thiếu tiếng “rè rè, rột rột” quen thuộc từ chiếc máy truyền tin PRC25 trên chiếc Command. Nh́n quanh chiến hạm, mọi thứ đều ngăn nắp, sạch sẽ, tôi lại liên tưởng đến ḷng chiếc LCM nhuộm máu bên ḍng sông đào thuộc quận Gia-Rai!
Trên mặt sông lặng lờ, đoàn giang đỉnh đang di động ngược chiều, tạo nên những lượn sóng loáng thoáng màu bạc. Lúc đến gần tôi mới nhận ra đó là đoàn PBR. Đối với tôi, h́nh ảnh đẹp nhất là từ trên trực thăng, nh́n đoàn PBR lướt nhanh trên những đoạn sông hẹp, bỏ lại phía xa mặt sông cuồn nộ giữa hai hàng dừa nước quằn quại. Bây giờ, trên ḍng sông lớn, nh́n đoàn PBR ẩn hiện lờ mờ trong bóng hoàng hôn tôi vẫn thấy có một cái ǵ đó rất hùng vĩ, rất lăng mạn.
Khi chiến hạm ra đến biển, tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu. Dựa người vào thành tàu với cảm giác ngầy ngật, tôi nghĩ đến Minh và những ngày Minh đi HQ 3. HQ 3 bề thế, tiện nghi, nhưng sao Minh vẫn thấy tù quẩn hơn chiếc Command nhỏ bé trên những ḍng sông có súng thù chực chờ! Đài chỉ huy và ghế Hạm-Trưởng trượng trưng cho uy quyền sao không hấp dẫn Minh bằng những đêm ngồi xổm trên sàn chiến đỉnh, tay bấm đèn, mắt lom lom nh́n vào bản đồ hành quân, t́m vị thế một đồn Nghĩa-Quân vừa kêu cứu! Câu truyền tụng trong Hải-Quân: “Trên biển cả, sau Thượng-Đế là Hạm-Trưởng” sao không lôi cuốn Minh bằng những lần bay trực thăng trong tầm đạn của địch để thị sát những điểm “đổ” quân… Bây giờ th́ tôi hiểu!
HQ 505 đến vịnh Phan-Rang vào một buổi sáng trời trong, biển lư tưởng.
Theo hoạch định, tôi sẽ ở trên HQ 505, hai người đàn ông theo tôi sẽ vào bờ, thuê xe đi ra Nhatrang rồi đem cả mấy gia đ́nh vô lại Phan-Rang. Nếu khi họ trở vô mà chiến hạm đă chuyển xong số đạn và không c̣n ủi băi nữa th́ họ sẽ giăng một tấm vải màu làm hiệu và tôi sẽ nhờ Nhượng cho xuồng đổ bộ vào đón.
Thấy hai người đàn ông lộ vẻ vui mừng, tôi đưa cho họ tờ giấy xếp nhỏ và dặn:
- Ông đưa giùm giấy này cho Ba tôi. Có chữ của tôi Ba tôi mới tin. Ông nhớ nói giùm với Ba tôi là tôi đang chờ ở đây, trên tàu này…
Tôi chưa nói hết câu, Há bước vào, gọi khẽ: “Chị”. Ngẫng lên, thấy nét mặt khác thường của Há, tôi lo âu:
- Dạ, có ǵ vậy, anh Há?
- Dạ, Hạm-Trưởng cho biết tàu không được phép ủi băi.
Tôi vội đứng lên, chạy ra cửa. Tôi không biết tôi chạy ra cửa để làm ǵ? Và sẽ chạy đi đâu? Nhưng ra đến boong tàu, tôi thấy Nhượng từ đài-chỉ-huy chạy xuống. Tôi tựa vào khoanh dây thừng, nh́n bước chân vội vă của Nhượng trên cầu thang. Đến bên tôi, Nhượng chậm răi:
- Ông Minh – Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh – không cho tàu tôi vào, chị ạ.
- Ông Minh đang ở đâu, thưa anh?
Nhượng chỉ một chiến hạm đang neo gần trong vịnh:
- Ông ấy đang ở trên HQ 3 đấy.
Tôi nh́n HQ 3 với vẻ ngán ngẫm:
- Bây giờ làm sao, anh Nhượng?
- Chị vào nghỉ, có ǵ tôi sẽ cho chị hay.
Tôi ngồi phịch lên thùng sắt để cạnh, gục đầu vào ḷng bàn tay. Một lúc lâu, tôi đến vịn giây cáp ven thân tàu, nh́n xuống ḷng biển xanh, cố t́m một giải pháp trong trường hợp HQ 505 được lệnh rời vùng biển này, nhưng nghĩ măi không ra.